Mở đầu
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ (KHCN), đặc biệt là sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi ngành nghề, lĩnh vực và hoạt động của toàn xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự,..., trong đó có ngành TT, TV.
Ở Việt Nam, sau gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, Việt Nam đã lớn mạnh về nhiều mặt, trong đó công tác thông tin, thư viện (TT, TV) đã có những bước phát triển đáng kể, việc ứng dụng các thành tựu KHCN mà trực tiếp là công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT) vào các quy trình hoạt động đã làm thay đổi từ diện mạo đến nội dung, từ phương thức tổ chức cho đến phương thức phục vụ của toàn ngành.
Tuy nhiên, so với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, việc ứng dụng CNTT&TT của hệ thống TT, TV Việt Nam vẫn còn ở mức khiêm tốn, chưa phát triển ngang tầm với các nước. Các cơ quan TT, TV của Bộ Quốc phòng (BQP) cũng không ngoại lệ.
I. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân đội về việc ứng dụng CNTT vào các hoạt động TT, TV Việt Nam nói chung và các cơ quan TT, TV trong quân đội nói riêng.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước, Quân đội luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc phát triển và ứng dụng CNTT&TT vào mọi hoạt động, lĩnh vực, ngành nghề, trong đó có ngành TT, TV.
Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 30/3/1991 của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới đã nêu: “Tập trung sức phát triển một số ngành KHCN mũi nhọn như điện tử, tin học,...”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa VII ngày 30/7/1994 xác định: “ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến, như CNTT phục vụ yêu cầu điện tử hóa và tin học hóa nền kinh tế quốc dân”. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII nhấn mạnh: “ứng dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực...Hình thành mạng thông tin quốc gia liên kết với một số mạng thông tin quốc tế”, Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) “Về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH” đã khẳng định: CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển..., ứng dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển..., mọi lĩnh vực, ngành nghề đều phải ứng dụng CNTT, trong đó có ngành TT, TV...
Quán triệt, thực hiện chủ trương, đường lối của Bộ Chính trị, Chính phủ đã xây dựng, ban hành các Nghị quyết, Quyết định, Đề án về việc phát triển, ứng dụng CNTT vào mọi mặt đời sống xã hội, mọi ngành nghề, lĩnh vực của Việt Nam như Nghị quyết số 49/CP ngày 04/8/1993 về “Phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam trong những năm 90”, Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP ngày 05/6/2000 của Chính phủ về xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000 – 2005, Quyết định số 392/QĐ-TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển ngành công nghiệp CNTT đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2025, Quyết định số 153/QĐ-TTg ngày 30/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình mục tiêu CNTT giai đoạn 2016 – 2020, Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường năng lực tiếp cận Cuộc CMCN 4.0”, Đề án “Hệ tri thức Việt số hóa” (2018), Khai trương Trục liên thông văn bản quốc gia (2019), Nghị định số 11/2014/NĐ-CP ngày 19/02/2014 của Chính phủ “Về hoạt động thông tin khoa học và công nghệ tại Việt Nam”.
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã cụ thể hóa nội dung trong các Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, ngày 04/5/2007, BVHTT đã ký Quyết định số 10/2007/QĐ-BVHTT Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Thư viện Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trong đó xác định: ứng dụng khoa học công nghệ cao nhằm tự động hóa, hiện đại hóa trong các khâu hoạt động của thư viện. Phát triển thư viện điện tử và thư viện kỹ thuật số. Riêng đối với Thư viện lực lượng vũ trang, mà cụ thể là hệ thống thư viện quân đội, ghi rõ: phải được đầu tư, nâng cấp, cải tạo và hiện đại hóa, trước hết là Thư viện Trung ương Quân đội (Thư viện Quân đội), các thư viện thuộc các Quân khu, Quân đoàn, Quân binh chủng trở thành thư viện điện tử, nối mạng Intranet và Internet, số hóa 1/3 tài liệu quân sự của nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh, quốc phòng của đất nước và nâng cao trình độ về mọi mặt của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội,...
Trong Pháp lệnh Thư viện (2000), Điều 21 đã chỉ rõ: ... “Đầu tư để đảm bảo cho các thư viện hưởng ngân sách nhà nước hoạt động, phát triển và từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất – kỹ thuật, điện tử hóa, tự động hóa thư viện,...Đầu tư tập trung cho một số thư viện có vị trí đặc biệt quan trọng”, trong đó có Thư viện Quân đội.
Luật Thư viện (2019) ra đời, mở ra những hướng phát triển mới cho ngành Thư viện trong tương lai. Các vấn đề về liên thông thư viện, phát triển thư viện số, hiện đại hóa thư viện được luật làm rõ trong 03 Điều: Điều 29: Liên thông thư viện, Điều 31: Phát triển thư viện số, Điều 32: Hiện đại hóa thư viện. Trong đó, tập trung làm rõ việc chia sẻ, sử dụng chung tài nguyên thông tin giữa các thư viện; xây dựng, tổ chức, bảo quản, khai thác tài nguyên thông tin số, phát triển thư viện số, số hóa tài liệu, quản trị thư viện số; xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật hiện đại bảo đảm triển khai, vận hành thư viện số và tự động hóa thư viện; tạo lập, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thư viện hiện đại; xây dựng mạng lưới thư viện; nghiên cứu, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, hệ thống dữ liệu lớn, điện toán đám mây, truy cập mở và thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của thế giới trong hoạt động thư viện.
Ngoài ra, Luật dành 01 Điều (Điều 13) quy định cụ thể về thư viện lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó, khẳng định: Thư viện lực lượng vũ trang nhân dân là thư viện của các đơn vị Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, có tài nguyên thông tin tổng hợp, chuyên ngành quốc phòng, an ninh. Ngoài các chức năng, nhiệm vụ chung, Thư viện lực lượng vũ trang nhân dân còn được Luật quy định thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ đặc thù như sau: Phát triển tài nguyên thông tin phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao; tiếp nhận, bổ sung và tổ chức khai thác tài nguyên thông tin chuyên ngành, quốc phòng, an ninh trong nước và nước ngoài; tài liệu hội nghị, hội thảo, báo cáo nghiên cứu, khảo sát và đề án, dự án, tạp chí chuyên ngành của lực lượng vũ trang nhân dân theo quy định; xây dựng cơ sở dữ liệu, thư viện số chuyên ngành nội sinh; bổ sung và mua quyền truy cập tài nguyên thông tin chuyên ngành về quốc phòng, an ninh; thực hiện liên thông giữa các thư viện trong cùng hệ thống, chia sẻ tài nguyên thông tin với thư viện trong nước và nước ngoài,...
Về ứng dụng CNTT trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, quan điểm và đường lối của Đảng được thể hiện rõ trong Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị, đó là “Lực lượng an ninh-quốc phòng nhanh chóng phổ cập, ứng dụng và phát triển CNTT, tạo tiền đề quan trọng góp phần xây dựng lực lượng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; từng bước xây dựng hệ thống tự động hóa chỉ hủy, kiểm soát, làm chủ, cải tiến vũ khí,...; sẵn sàng, chủ động đối phó với chiến tranh thông tin hiện đại”. Nhận thức rõ điều đó, BQP đã có Quyết định số 255/2006/QĐ-BQP về Chiến lược ứng dụng và phát triển CNTT đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Quyết định số 105/2006/QĐ-BQP về việc phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự và quốc phòng tới năm 2010, định hướng tới năm 2020; ngày 11/01/2010 BQP ban hành Thông tư số 02/2010/TT-BQP trong đó sửa đổi, bổ sung Mục 4 của Chiến lược với sự điểu chỉnh nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự và quốc phòng tới năm 2020; Quyết định 254/2011/QĐ-BQP về phê duyệt Quy hoạch ứng dụng và phát triển CNTT đến năm 2020; Chị thị 03/CT-BQP ngày 23/01/2014 về “Tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin và một số vấn đề tổ chức hoạt động tác chiến không gian mạng”, Chỉ thị số 94/CT-BQP ngày 27/12/2013 về “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin khoa học quân sự, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”, Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 737/QĐ-BQP ngày 13/3/2018 của BQP về “Tăng cường năng lực tiếp cận CMCN 4.0”,...
II. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan TT, TV của Bộ Quốc phòng.
Là một bộ phận của công tác quân sự, công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, ngành TT, TV có vai trò quan trọng là công cụ, nguồn lực đặc biệt để phục vụ nghiên cứu, tham mưu, ra quyết định, hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chiến lược quân sự, quốc phòng; phục vụ giảng dạy, đào tạo, huấn luyện; góp phần định hướng đọc, định hướng thông tin, phát triển văn hóa đọc, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sỹ trong và ngoài quân đội.
Trong bối cảnh thế giới và Việt Nam đang có xu hướng tích hợp, thu thập, trao đổi, xử lý, phân tích, tính toán, khai thác dữ liệu lớn (big data), đặc biệt xu hướng tự động hóa, thông minh hóa trong xử lý, liên kết dữ liệu, truyền và cung cấp thông tin, tài liệu trên nền tảng công nghệ số hiện đại. Các cơ quan TT, TV trong quân đội càng quán triệt sâu sắc sắc vai trò, vị trí của việc ứng dụng thành tựu KHCN trong hoạt động TT, TV.
Những năm qua, BQP nói chung và các cơ quan TT, TV nói riêng đã đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT&TT từ xây dựng hạ tầng mạng, đường truyền số liệu quân sự bảo đảm kết nối dữ liệu đến các đầu mối chiến lược, chiến dịch và một số đơn vị cấp chiến thuật trên các hướng, địa bàn trọng điểm. Hệ thống thông tin chỉ đạo, điều hành được vận hành từ Bộ xuống các đơn vị. Cổng thông tin điện tử của các đơn vị được xây dựng, nâng cấp, tạo thuận lợi trong việc kết nối, chia sẻ, khai thác thông tin, tài liệu trong toàn quân.
Đến nay, toàn quân có hàng trăm cơ quan TT, TV cơ sở, hơn 1000 tủ sách phòng Hồ Chí Minh. Các cơ quan TT, TV đã tận dụng và phát huy tối đa việc ứng dụng CNTT&TT trong hoạt động tổ chức, quản lý, khai thác, chia sẻ tài nguyên thông tin; chủ động nghiên cứu đề xuất, triển khai thực hiện các đề án, dự án hiện đại hóa hệ thống thông tin, xây dựng thư viện số, phát triển tài nguyên số,...
BQP đã thiết lập Mạng Thông tin Khoa học – Công nghệ - Môi trường quân sự (Mạng MISTEN) do Trung tâm Thông tin Khoa học Quân sự/Bộ Quốc phòng (Trung tâm Thông tin KHQS/BQP) chủ trì thực hiện, được đầu tư xây dựng từ năm 1998, là hệ thống thông tin riêng của Ngành Thông tin Khoa học quân sự và đây cũng là mạng diện rộng đầu tiên của BQP, đến nay đã qua hai lần nâng cấp, phát triển, mở rộng các điểm kết nối, truyền tải, cung cấp một lượng lớn thông tin, tài liệu từ Trung tâm Thông tin KHQS/BQP đến các đơn vị trong toàn quân và ngược lại, khẳng định tính khả thi, hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong việc tin học hóa hoạt động nghiệp vụ TT, TV góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ nói chung và chất lượng phục vụ, cung cấp, khai thác, chia sẻ thông tin, tài liệu phục vụ nghiên cứu, đào tạo, huấn luyện và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân nói riêng.
Cũng từ năm 1998, các cơ quan TT, TV trong toàn quân, đã từng bước tin học hóa các hoạt động nghiệp vụ, xây dựng CSDL thư mục, số hóa tài liệu, tạo lập trang web, nối mạng MISTEN,...
Cũng thời điểm này, Dự án Thư viện điện tử do Trung tâm Thông tin KHQS/BQP chủ trì cũng bắt đầu triển khai. Giai đoạn 1: 2002 – 2005, kết nối 5 học viện lớn của Quân đội với Trung tâm Thông tin KHQS/BQP. Giai đoạn 2: 2008 – 2011: Dự án Thư viện số dùng chung trong BQP, kết nối 25 đơn vị trọng điểm, trong đó chủ yếu các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu, ...Giai đoạn này, các đơn vị tham gia Dự án được đầu tư xây dựng mới thư viện số, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị CNTT, phần mềm, cổng thông tin riêng cho mỗi đơn vị. Tuy nhiên, thời điểm này, hoạt động của hệ thống còn phân tán, độc lập, việc liên thông, tích hợp dữ liệu chưa thực hiện được, chưa tạo thành nguồn tài nguyên thông tin số tập trung,...Giai đoạn 3: 2018- 2020: giai đoạn này đầu tư mở động đường truyền số liệu quân sự kết nối đến các điểm truy cập thông tin, tài liệu trong toàn quân, kết nối gần 40 đơn vị thư viện số thành viên (bao gồm Trung tâm Thông tin KHQS/BQP, TVQĐ/TCCT, Thư viện các học viện, nhà trường, Viện Nghiên cứu,...), hạ tầng hiện đại, có khả năng tích hợp, xử lý, truy xuất dữ liệu lớn, tốc độ cao, đáp ứng tiêu chuẩn của một trung tâm tích hợp dữ liệu lớn hiện nay, trong đó, Trung tâm Thông tin KHQS/BQP có vai trò là cơ quan điều phối, quản lý hoạt động của hệ thống thư viện số dùng chung trong BQP.
Song song với các hoạt động của Trung tâm Thông tin KHQS/BQP và ngành Thông tin Khoa học quân sự của BQP, Thư viện Quân đội (TVQĐ), với tư cách là thư viện đầu ngành của hệ thống thư viện trong quân đội, đã chủ động, tham mưu, đề xuất, hướng dẫn, triển khai các hoạt động hiện đại hóa, ứng dụng CNTT vào các hoạt động tại TVQĐ nói riêng và các thư viện trong toàn quân nói chung.
Từ năm 1993, TVQĐ đã áp dụng phần mềm CDS/ISIS – phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu thư mục của UNESCO cung cấp miễn phí cho các nước vào việc xây dựng các CSDL thư mục chuyên đề. Năm 1998, sử dụng CDS/ISIS for window để xây dựng CSDL tài liệu mới nhập về của TVQĐ, đồng thời xử lý hồi cố tài liệu đã nhập về trước đó. Cuối năm 2000, xây dựng CSDL tên Báo-Tạp chí. Đến năm 2002, xây dựng mạng LAN và bắt đầu thực hiện có hiệu quả việc tra cứu TL/TT trên máy tính. Năm 2003, kết nối MISTEN. Năm 2005, xây dựng trang web trên MISTEN.
Cuối năm 2005, chuyển đổi từ CDS/ISIS sang phần mềm Quản lí thư viện điện tử - MYLIB, sau này nâng cấp thành phần mềm ESYLIB, INFOLIB (2008) (Phòng Thông tin – Thư mục – Máy tính phối hợp với Công ty Cổ phần tư vấn phần mềm và giải pháp số hóa tài liệu thực hiện). Năm 2006, biên mục MARC21, xây dựng phòng đọc điện tử, kết nối mạng internet, xây dựng CSDL toàn văn, số hoá TL, xây dựng trang web trên mạng LAN.
Cuối năm 2006, TVQĐ triển khai thực hiện giai đoạn 1 Dự án “Đầu tư nâng cấp trang thiết bị phục vụ công tác quản lý và nghiên cứu khoa học tại TVQĐ”: đầu tư máy scan, nâng cấp phòng đọc điện tử, xây dựng phần mềm quản trị thư viện thư viện tích hợp, xây dựng mới trang web của TVQĐ trên mạng MISTEN, xây dựng đường truyền cáp quang nối với mạng MISTEN.
Đến cuối năm 2011, áp dụng phần mềm quản lí tài liệu số (TLS) – D-Lib do Công ty Đức Minh cung cấp để quản lí toàn bộ TLS riêng biệt (trước đây, TVQĐ quản lí TLS bằng module quản lí TL toàn văn trong phần mềm INFORLIB).
Cuối năm 2010, xây dựng trang web trên Internet, từ tháng 9/2012 khai trương và phục vụ bạn đọc trên mạng Internet.
Đầu năm 2012, TVQĐ triển khai Dự án “Hiện đại hóa Thư viện Quân đội giai đoạn 1”. Dự án hoàn thành và đi vào sử dụng năm 2016, Dự án đầu tư nhiều trang thiết bị CNTT phục vụ công tác TT-TV cho TVQĐ như phần mềm quản trị thư viện tích hợp (của Công ty CMC), nâng cấp các trang web, hệ thống máy chủ, máy in mã vạch, máy scan rôbốt tự động Treventus, phòng đọc điện tử, hệ thống giám sát an ninh: cổng từ, camera giám sát, …
Năm 2019, TVQĐ triển khai thực hiện “Dự án số hóa kho tài liệu quân sự và xây dựng hệ thống lưu trữ dữ liệu số tại TVQĐ” do BQP phê duyệt, dự án sẽ là cơ hội để TVQĐ đẩy nhanh quá trình số hóa tài liệu, phát triển tài liệu số về quân sự góp phần nâng cao hiệu quả công tác lưu trữ, bảo quản, phục vụ, chia sẻ thông tin/tài liệu cho cán bộ, chiến sĩ trong và ngoài quân đội.
Đầu năm 2020, TVQĐ tham gia tích hợp dữ liệu vào hệ thống thư viện số dùng chung của BQP trên mạng MISTEN, góp phần làm giàu nguồn tài nguyên số cho Hệ thống Thư viện số dùng chung của BQP, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chia sẻ, khai thác, tra cứu nguồn tài nguyên thông tin cho các cơ quan, đơn vị của BQP.
Về việc áp dụng phần mềm quản trị thư viện và các phần mềm tiện ích khác trong các cơ quan TT, TV của BQP. Đến nay, các cơ quan, TT, TV trực thuộc BQP cơ bản đã áp dụng phần mềm quản trị thư viện tích hợp trong các khâu nghiệp vụ. Đi đầu là Trung tâm Thông tin KHQS/BQP và TVQĐ/TCCT, hai cơ quan nghiệp vụ đầu nghành của hệ thống TT, TV toàn quân, đã áp dụng CNTT trong hoạt động nghiệp vụ từ những năm 90 của thế kỷ trước. TVQĐ/TCCT, Trung tâm Thông tin KHQS/BQP và các thư viện thuộc các học viện, nhà trường dùng phần mềm quản trị thư viện tích hợp của công ty CMC (riêng Học viện Kỹ thuật Quân sự dùng phần mềm quản trị thư viện tích hợp Libol của Công ty Tinh Vân). Các thư viện quân, binh chủng, sư đoàn và tương đương cơ bản ứng dụng phần mềm INFOLIB do TVQĐ và Công ty Đức Minh cung cấp. Còn các thư viện cấp trung, lữ đoàn, phòng Hồ Chí Minh cơ bản chưa áp dụng phần mềm quản trị thư viện trong hoạt động nghiệp vụ, chủ yếu hoạt động theo phương thức truyền thống.
Ngoài phần mềm quản trị thư viện, các cơ quan TT, TV trực thuộc BQP và một số thư viện đầu mối khác đã sử dụng phần mềm Quản lý chỉ đạo điều hành trong công tác chỉ đạo hành chính, phần mềm thiết kế các sản phẩm thông tin hiện đại như phần mềm thiết kế video clip, phần mềm thiết kế đồ họa, phần mềm xử lý file tài liệu số hóa, phần mềm chuyển file PDF, phần mềm giám sát mạng LAN, sử dụng ứng dụng mạng xã hội Facebook để tuyên truyền, quảng bá tài nguyên thông tin, hoạt động của các cơ quan TT, TV,...
Bên cạnh đó, các cơ quan TT, TV lớn của BQP còn áp dụng KHCN trong số hóa tài liệu, quản lý an ninh, lưu thông, mượn trả tài liệu. Đến nay, ngoài hai cơ quan đầu ngành trong lĩnh vực TT, TV của BQP (Trung tâm Thông tin KHQS/BQP, TVQĐ/TCCT) được trang bị máy scanrobot tự động thì các thư viện trực thuộc bộ, thư viện học viện, nhà trường cơ bản đều đã được trang bị máy scan bán tự động/thủ công; sử dụng các thiết bị từ (cổng từ an ninh, chỉ từ, tem từ, máy khử từ) để kiểm soát an ninh tài liệu khi đưa ra khỏi các phòng mượn, phòng đọc; ứng dụng mã vạch vào quản lý, lưu thông, mượn trả tài liệu; trang bị hệ thống camera giám sát tại các vị trí thường xuyên có bạn đọc,...
Nhìn chung, các cơ quan TT, TV trong quân đội đã từng bước đẩy mạnh ứng dụng CNTT&TT và các khoa học công nghệ hiện đại khác trong hoạt động chuyên môn, nghiêp vụ, tuy nhiên, việc triển khai chưa thực sự đồng bộ, chưa phát huy hết hiệu quả của việc ứng dụng CNTT, sự chênh lệch giữa các cơ quan, đơn vị các cấp còn quá lớn,...tạo nên nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình hoạt động, ...
II. Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các cơ quan TT, TV của BQP.
*Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với công tác ứng dụng CNTT vào các cơ quan TT, TV trên toàn quân.
Cần đẩy mạnh công tác quán triệt, giáo dục để nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về vai trò, vị trí, ý nghĩa của việc ứng dụng CNTT&TT vào hoạt động quân sự nói chung và hoạt động TT, TV nói riêng, trước hết là cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị.
*Nghiên cứu, xây dựng, ban hành, phổ biến, hoàn thiện, bổ sung, điều chỉnh các cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, quy chế, quy định đáp ứng yêu cầu trong quá trình triển khai áp dụng tin học hóa, hiện đại hóa, tự động hóa,...các hoạt động của ngành TT, TV trong quân đội.
Trung tâm Thông tin KHQS/BQP, TVQĐ và các cơ quan chức năng chủ động phối hợp, thường xuyên rà soát, tham mưu đề xuất, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống các văn bản quy định, hướng dẫn, quy hoạch, kế hoạch về việc ứng dụng CNTT trong hoạt động TT, TV, tạo cơ sở pháp lý để quản lý, chỉ đạo hoạt động, đáp ứng kịp thời, nhiệm vụ TT, TV trong kỷ nguyên số,...
Đồng thời, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt Chị thị 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ, Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 737/QĐ-BQP ngày 13/3/2018 của BQP về tăng cường năng lực tiếp cận CMCN 4.0, trọng tâm là đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động TT, TV trong toàn ngành theo kế hoạch hằng năm, bảo đảm an toàn, an ninh, không để lộ lọt thông tin, bí mật quân sự và bí mật quốc gia.
*Đẩy mạnh tạo lập, tổ chức tài nguyên thông tin số hóa, trong đó, chú trọng tạo lập, tổ chức số hóa tài liệu nội sinh của BQP.
BQP là một cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đường lối, nhiệm vụ quốc phòng, quân sự bảo vệ Tổ quốc; chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản lý, và chỉ huy quân đội nhân dân, dân quân tự vệ,.... Với chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng nói trên, hằng năm, BQP có một lượng tài liệu nội sinh khổng lồ: các tạp chí chuyên ngành quân sự, quốc phòng; kỷ yếu hội thảo khoa học chuyên ngành; tài liệu đào tạo, huấn luyện, giảng dạy, học liệu, luận án, luận văn của các học viện, nhà trường,..; các xuất bản phẩm xuất bản của các cơ quan xuất bản trong quân đội,...là nguồn tài liệu quý giá không chỉ của BQP mà còn của Nhà nước, quốc gia về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, vì vậy, việc số hóa, tổ chức, tích hợp, quản lý, khai thác, phổ biến, phân phối, lưu trữ,....phục vụ công tác nghiên cứu, tham mưu, ra quyết định, hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chiến lược quân sự, quốc phòng; phục vụ đào tạo, huấn luyện, giảng dạy, học tập; góp phần định hướng thông tin, phát triển văn hóa đọc, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần,...là vô cùng cần thiết và mang lại nhiều giá trị kể cả trước mắt và lâu dài.
*Ứng dụng CNTT trong liên kết, tích hợp, phân tích, xử lý, bao gói, khai thác, chia sẻ, phân phối dữ liệu trên hệ thống thư viện số dùng chung của BQP, tạo tiền đề cho việc tích hợp, phân tích dữ liệu lớn (big data) trong thời gian tới.
Việc liên kết, tích hợp tài nguyên thông tin trên hệ thống thư viện số sẽ tạo nên kho dữ liệu khổng lồ của BQP, là tiền đề cho việc phân tích, xử lý cũng như, khai thác, chia sẻ, phân phối, quản lý tài nguyên số tập trung, thống nhất trong BQP.
Việc tận dụng, khai thác có mục đích và hiệu quả nguồn tài nguyên của BQP, trước mắt, trên cơ sở sử dụng tài nguyên của hệ thống thư viện số dùng chung của BQP làm hạt nhân, tiến tới xây dựng big data, đòi hỏi chúng ta cần có cách tiếp cận phù hợp, để đáp ứng nhu cầu tin theo từng đối tượng, từng nhiệm vụ trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng.
Tích cực nghiên cứu, ứng dụng các xu hướng mới như tích hợp dữ liệu lớn, sử dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích, khai thác dữ liệu từ các ghi dữ liệu, thói quen tìm kiếm, nhu cầu thông tin,...để cải tiến dịch vụ, phát triển các dịch vụ mới, tiếp cận người dùng tin, nắm bắt nhu cầu thông tin, kết nối cộng động, tạo lập các giao dịch mang tính cá nhân, cung cấp tài nguyên theo nhu cầu của từng người dùng, thực hiện các nhiệm vụ của một thủ thư truyền thống (robot), ...Vì vậy, chúng ta cần có sự chuẩn bị hạ tầng cho CSDL big data (hạ tầng mạng, CSDL, thuật toán, hệ thống lưu trữ, bộ nhớ, phần mềm quản lý, tích hợp, phân tích dữ liệu, cơ chế bảo mật, cơ chế hoạt động, chính sách, chiến lược và các thành phần khác,...)
Trong đó, cần tập trung quy hoạch, mở rộng, phát triển hạ tầng CNTT, các điểm truy cập, kết nối đến người dùng trong toàn quân. Đặc biệt, tập trung nâng cao chất lượng, phát triển mạng MISTEN cũng như kết nối các thư viện đơn vị các cấp thành một mạng lưới TT, TV diện rộng lớn mạnh của BQP. Xây dựng chính sách thông tin, cơ chế hoạt động quản lý, khai thác của hệ thống, quy định về an toàn và an ninh thông tin,... Chuẩn hóa thông tin và hệ thống thông tin quân sự các cấp. Triển khai áp dụng các chuẩn nghiệp vụ thống nhất trên toàn hệ thống. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc trao đổi, liên thông và sử dụng chung tài nguyên thông tin trong BQP.
Ngoài ra, cần nghiên cứu và dự báo, đón đầu các xu thế phát triển của hoạt động TT, TV trong kỷ nguyên số, từ loại hình tài liệu, phương thức phục vụ, phát huy vài trò dẫn dắt của của các cơ quan TT, TV trong thời đại công nghệ số, vấn đề bản quyền, tính bảo mật, tính riêng tư của người dùng, của dữ liệu, các chuẩn nghiệp vụ quốc tế mới,...cho đến nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại vào các hoạt động nghiệp vụ.
*Quan tâm đào tạo, kiện toàn tổ chức, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên CNTT, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tăng cường đầu tư đào tạo, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán công nghệ thông tin, có chính sách ưu đãi, bảo đảm đời sống, khuyến khích, động viên, thu hút kỹ sư CNTT và các chuyên gia hàng đầu tham gia nhiệm vụ ứng dụng CNTT trong hoạt động TT, TV, quản lý và triển khai các dự án hiện đại hóa, tin học hóa, tự động hóa, ...
Trong bối cảnh xã hội số, chính phủ số, thông tin số,... biên chế CNTT có vai trò đặc biệt quan trọng trong tất cả lĩnh vực, trong đó, hệ thống thông tin số luôn đòi hỏi 3 thành tố cơ bản cấu thành: phần cứng, phần mềm, nội dung. Vì vậy, để vận hành, triển khai, ứng dụng hệ thống, đòi hỏi phải có đội ngũ kỹ sư CNTT được đào tạo cơ bản, bảo đảm số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, sẵn sàng bổ sung nguồn nhân lực cho quân đội đáp ứng yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trong chiến tranh thông tin, tác chiến trên không gian mạng,...
Kết luận
Như vậy, việc ứng dụng CNTT trong các cơ quan TT, TV của BQP bước đầu đã có những kết quả, đem lại những thay đổi lớn trong hoạt động TT, TV toàn quân. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống TT, TV hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, phục vụ công tác nghiên cứu, tham mưu, ra quyết định, hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chiến lược quân sự, quốc phòng cho lãnh đạo chỉ huy; phục vụ giảng dạy, học tập, đào tạo, huấn luyện; góp phần định hướng thông tin, phát triển văn hóa đọc, nâng cao nhận thức, chính trị tư tưởng, văn hóa, tinh thần cho toàn thể cán bộ, chiến sỹ trong toàn quân, cần có sự quan tâm, đầu tư đồng bộ, từ cơ chế, chính sách cho đến xây dựng nguồn lực, phát triển hạ tầng, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ,... để hệ thống đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, chính trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.
---------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) “Về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH”
- Kỷ yếu Hội nghị Thông tin Khoa học Quân sự toàn quân lần thứ 6, Trung tâm Thông tin Khoa học Quân sự/BQP, Hà Nội, 2019, 298tr.
- Kỷ yếu Thư viện Quân đội và Hệ thống thư viện quân đội – 50 năm xây dựng và phát triển: Nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Thư viện Quân đội 15/11/1957-15/11/2007), Thư viện Quân đội, Hà Nội, 2007.- 197 tr.
- Kỷ yếu Thư viện Quân đội và Hệ thống thư viện quân đội: 55 năm xây dựng và phát triển: Nhân kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Thư viện Quân đội 15/11/1957 – 15/11/2012).-H.: Thư viện Quân đội, 2012.- 207 tr.
- Luật Thư viện 2019. Luật số: 46/2019/QH14, ngày 21 tháng 11 năm 2019.
- Pháp lệnh Thư viện. Số 31/2000/PL-UBTVQH10, ngày 28 tháng 12 năm 2000.
- Quá trình hiện đại hóa Thư viện Quân đội – thực trạng và xu hướng phát triển/Trần Nữ Quế Phương, Tạp chí Khoa học Quân sự, 2013, số 10.
- Quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Thư viện Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Số 10/2007/QĐ-BVHTT.
- Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019/Bộ Quốc phòng, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019.
- Thư viện Quân đội – chặng đường 60 năm/ Trần Thị Bích Huệ, Trần Nữ Quế Phương. Tạp chí Thư viện Việt Nam, 9/2017.
Nguồn: Tham luận tham gia Hội thảo phục vụ xây dựng Đề án: “Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động thư viện ở Việt Nam/Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, 2020.
----------------------------------------------
Trung tá, Th.s Mạc Thùy Dương – Phó Giám đốc Thư viện Quân đội
Thiếu tá, Th.s Trần Nữ Quế Phương – Trưởng phòng Thông tin - Thư mục - Máy tính