Đang tải trang

PHÁT TRIỂN VÀ CHIA SẺ NGUỒN LỰC THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRONG HỆ THỐNG THƯ VIỆN QUÂN ĐỘI

Tham luận khái quát cơ cấu tổ chức, thực trạng xây dựng, phát triển và chia sẻ nguồn lực thông tin điện tử trong hệ thống thư viện quân đội, đồng thời chỉ ra các hạn chế, khó khăn, vướng mắc cũng như nguyên nhân của các tồn tại đó trong việc tạo lập và chia sẻ nguồn lực thông tin điện tử trong toàn hệ thống, từ đó, đề xuất các giải pháp phát triển trong thời gian tới. 

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông trong giai đoạn hiện nay đã tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực, ngành, nghề, trong đó có ngành thông tin - thư viện (TTTV). Việc ứng dụng CNTT vào hoạt động TT – TV đã tạo ra sự biến đổi về chất cả sản phẩm và các dịch vụ TT – TV, trong đó, đáng chú ý là đã tạo ra một dạng nguồn lực thông tin mới trong các cơ quan TT – TV đó là nguồn lực thông tin điện tử (NLTTĐT) – đây là nguồn lực nền tảng, cốt lõi cho việc hình thành và phát triển thư viện theo hướng hiện đại. Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngày nay, các TV đã và đang từng bước xây dựng và phát triển NLTTĐT với nhiều loại hình và cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng, việc phát NLTTĐT, nhìn chung, ở các cơ quan TT – TV Việt Nam nói chung và của các thư viện trong hệ thống quân đội nói riêng, đến nay chưa có một chiến lược, chính sách phát triển cụ thể cho dạng nguồn lực thông tin mới này, cũng như chưa thiết lập được cơ chế hoạt động, phối hợp, chia sẻ sao cho hiệu quả giữa các hệ thống. Việc xây dựng NLTTĐT ở các cơ quan TT – TV hiện nay, chủ yếu mới chỉ dừng ở mức tạo lập, tra cứu thông tin/tài liệu ở cấp thư mục và theo chế độ cục bộ, khép kín của từng đơn vị, từng hệ thống, việc liên kết, chia sẻ còn nhiều hạn chế và vướng mắc trong chính sách, cơ chế, vấn đề bản quyền, hạ tầng, cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực,... và HTTVQĐ cũng không phải là một ngoại lệ. 

Nhìn nhận từ thực tiễn, có thể thấy, việc tiếp tục phát triển NLTTĐT trong hệ thống thư viện quân đội (HTTVQĐ) trong thời gian tới sẽ còn gặp nhiều khó khăn và cần phải có những nghiên cứu và quan điểm mới cho vấn đề này cả về lí luận và thực tiễn để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tạo lập và chia sẻ NLTTĐT trong toàn hệ thống.

1. Hiện trạng tổ chức của Hệ thống thư viện Quân đội

Cùng với các thiết chế văn hóa trong quân đội, hệ thống TV trong toàn quân đã có những đóng góp tích cực, phục vụ đắc lực công tác nghiên cứu, đào tạo, huấn luyện, học tập, tổng kết chiến tranh, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho bộ đội, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Với tính chất, vừa là TV tổng hợp chuyên ngành, vừa là trung tâm văn hóa, giáo dục và thông tin khoa học cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nên NLTT của các TV trong HTTVQĐ có tính đặc thù: không chỉ tập trung chú trọng xây dựng NLTT chuyên ngành khoa học quân sự, lịch sử chiến tranh, cách mạng,... đáp ứng chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mỗi TV, mà còn phải bảo đảm tính toàn diện của các lĩnh vực tri thức khác, đòi hỏi các TV trong quân đội thường xuyên nghiên cứu nắm rõ thực trạng, đề ra các giải pháp xây dựng NLTT phù hợp, góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết của Quân đội và đất nước đặt ra.

HTTVQĐ là một hợp phần quan trọng của hệ thống thư viện Việt Nam. HTTVQĐ được xây dựng theo tổ chức của quân đội, hình thành từ trung ương đến các đơn vị cơ sở. Trong quân đội, các cơ quan thông tin – thư viện được tổ chức:

+ Các thư viện khoa học tổng hợp trực thuộc cơ quan chính trị các cấp quản lí. Ví dụ: Thư viện các Tổng cục, Thư viện Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng,..

Vốn tài liệu của các thư viện này phong phú và đa dạng Ngoài ra, còn có các thư viện Sư đoàn, phòng đọc Trung, Lữ đoàn và tủ sách phòng Hồ Chí Minh chủ yếu để phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ.

+ Các thư viện khoa học chuyên ngành thường được tổ chức ở các Học viện, Nhà trường, Viện nghiên cứu. Các thư viện này được tổ chức nhằm phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, huấn luyện, tác chiến,...theo đặc thù của từng đơn vị. Vốn tài liệu của thư viện khoa học là các sách, tạp chí chuyên ngành quân sự và các khoa học liên quan mang tính chuyên sâu, chuyên ngành hẹp của từng lĩnh vực nghiên cứu quân sự cụ thể.
Riêng, các học viện, nhà trường trong quân đội, hiện nay, Thư viện nằm trong Phòng Thông tin Khoa học Công nghệ Môi trường (Nay là Phòng Thông tin Khoa học Quân sự, trong phòng có Ban Thư viện và Ban Thông tin), việc bố trí như hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp hoạt động, phục vụ thông tin/tài liệu cho NDT của mỗi học viện, nhà trường.

Trong đó, Thư viện Quân đội trực thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam là Thư viện chuyên ngành cấp Nhà nước về quân sự, là cơ quan nghiệp vụ đầu ngành của hệ thống thư viện toàn quân, có chức năng tham mưu giúp Thủ trưởng Tổng cục Chính trị về công tác thư viện và hoạt động sách báo, với những nhiệm vụ sau:

- Bổ sung, sưu tầm, thu thập, tàng trữ sách báo, tài liệu về quân sự, quốc phòng ở trong và ngoài nước;

- Tổ chức phục vụ công tác học tập, nghiên cứu, cung cấp thông tin, định hướng đọc và xây dựng phong trào đọc sách trong quân đội.

- Hướng dẫn nghiệp vụ, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên thư viện cho hệ thống thư viện toàn quân;

- Bổ sung sách tập trung, bảo đảm đời sống văn hóa tinh thần cho bộ đội.

Đến nay, toàn quân có hơn 80 thư viện cấp đầu mối trực thuộc BQP và có gần 1000 thư viện, phòng đọc và Tủ sách phòng Hồ Chí Minh.

Từ khi thành lập đến nay, HTTVQĐ đã không ngừng được củng cố và lớn mạnh, trở thành một trong những hệ thống cơ quan thông tin – thư viện chuyên ngành lớn mạnh của ngành Thư viện Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất, hoạt động có hiệu quả, nề nếp, …Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển và hội nhập trong thời gian tới, HTTVQĐ cần có những hướng đi mới, đột phá trong các khâu nghiệp vụ then chốt, đặc biệt trong việc tạo lập, xây dựng và phát triển NLTTĐT, một trong những nền tảng cốt lõi để xây dựng TVĐT trong tương lai. 

2.Thực trạng xây dựng, phát triển và chia sẻ NLTTĐT trong hệ thống thư viện quân đội.

Nhằm đáp ứng yêu cầu của hội nhập và giao thoa văn hóa trong giai đoạn hiện nay trong hệ thống TV quân đội nhiệm vụ hữu ích, thực tế và cấp bách là cần sớm xây dựng NLTTĐT để trở thành nên tảng cho việc trao đổi, chia sẻ tài nguyên TT trong và ngoài hệ thống. NLTTDT mở ra cơ hội, khả năng trong việc chia sẻ, tiếp cận TT khoa học nói chung và TT khoa học quân sự nói riêng cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân góp phần xây dựng, củng cố nền quốc phòng an ninh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

Những năm gần đây, dù đã có chủ trương, trong Quyết định số 10/2007 – Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành TV Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch) định hướng đến năm 2020: ứng dụng khoa học công nghệ cao nhằm tự động hóa hiện đại hóa trong các khâu hoạt động của TV. Phát triển thư điện tử và TV kỹ thuật số,…, Số hóa 100% TL quý hiếm trong TV, …Hệ thống TV trong quân đội phải được đầu tư, nâng cấp cải tạo và hiện đại hóa, trước hết là TV Trung ương Quân đội, các TV thuộc các Quân khu, quân đoàn, quân binh chủng trở thành TV điện tử, nối mạng Intranet, Internet, số hóa 1/3 TL quân sự của nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh, quốc phòng của đất nước và nâng cao trình độ về mọi mặt của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội….” song hoạt động xây dựng nguồn lực TT điện tử (NLTTĐT) trong HTTVQĐ còn nhiều hạn chế, do vậy kết quả thu được còn rất khiêm tốn. 

Đến nay, HTTVQĐ đã được kết nối và hoạt động trên cơ sở mạng truyền số liệu quân sự của Bộ Quốc phòng đến cấp quân khu và các đơn vị tương đương, hầu hết các thư viện đã được kết nối mạng quân sự, trong đó, các thư viện học viện, nhà trường, cơ quan nghiên cứu chiếm 80%, thư viện của các quân khu, quân đoàn, và sư đoàn chiếm 20%. Ngoài ra, các thư viện còn kết nối internet để phục vụ thông tin/tài liệu và tuyên truyền các hoạt động của Đảng, Nhà nước, Quân đội theo đúng quy định của Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, số thư viện được nối mạng Internet trên toàn quân còn rất kiêm tốn. Cơ bản các đơn vị trong hệ thống đã ứng dụng CNTT trong các khâu nghiệp vụ, tạo lập các CSDL thư mục, tra cứu thông tin thư mục bằng máy tính điện tử; gần 20 thư viện đã và đang số hóa tài liệu và xây dựng CSDL toàn văn, trong đó, phải kể đến: Trung tâm Thông tin Khoa học Quân sự - BQP, Cục Công nghệ thông tin, Thư viện Quân đội, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Chính trị Quân sự, ....là các đơn vị đi đầu trong hoạt động số hóa tài liệu. Các thiết bị phục vụ cho việc số hóa được các đơn vị sử dụng cơ bản đến nay vẫn là máy số hóa thủ công, riêng Cục CNTT, Trung tâm thông tin khoa học quân sự –BQP đã được đầu tư máy số hóa tự động Treventus, Kistas,...

Nhìn chung, việc tạo lập và phát triển NLTTĐT của các đơn vị trong toàn quân, vẫn chủ yếu mang tính tự trị, khép kín, ...chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện, việc chia sẻ, trao đổi chưa thực sự hiệu quả,...

* Nguyên nhân:

- Chưa có chiến lược và chính sách phát triển NLTTĐT trong toàn quân;

- Chưa có dự án xây dựng và phát triển NLTTĐT của BQP;

- Các thư viện đều tiến hành mua tài liệu điện tử, số hóa tài liệu và xử lí tài liệu điện tử và tài liệu số hóa của đơn vị mình một cách cục bộ, khép kín, dẫn đến tình trạng một tài liệu nhưng nhiều đơn vị số hóa, việc này thật sự lãng phí kinh phí và nhân lực;

 - Chưa có một cơ quan đứng đầu điều phối việc mua và xây dựng NLTTĐT trong toàn quân;

- Chưa thống nhất được các tiêu chuẩn kĩ thuật trong quá trình xử lí và khai thác tài liệu số hóa;

- Việc khai thác, phục vụ và chia sẻ NLTTĐT trong toàn quân còn nhiều hạn chế và hiệu quả thấp;

- Công tác tổ chức, thực hiện còn lúng túng từ việc lựa chọn phần mềm, thiết bị số hoá và cách thức tổ chức và quản lí tài liệu số, quy trình xử lý, khai thác và bảo quản cũng như vấn đề bản quyền của tài liệu số;

- Phần mềm quản trị thư viện tích hợp và phần mềm quản trị thư viện số được dùng trong toàn quân còn nhiều bất cập trong quá trình sử dụng, gây khó khăn trong quá trình chia sẻ, khai thác và dùng chung NLTTĐT

3. Đề xuất một số giải pháp xây dựng, phát triển và chia sẻ NLTTĐT của HTTVQĐtrong thời gian tới.

Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ diễn biến nhanh chóng và còn nhiều phức tạp, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hoá tiếp tục diễn ra gay go và quyết liệt. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nhất là CNTT đang phát triển như vũ bão. Hiện tượng bùng nổ TT toàn cầu, sự ra đời của nhiều phương tiện nghe, nhìn khiến văn hoá đọc đã và đang bị chi phối mạnh mẽ. Đất nước ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh, nhu cầu đời sống con người, trong đó có nhu cầu hưởng thụ văn hoá, nhu cầu nhận thức bao gồm nhu cầu thông tin, trao đổi tri thức ... ngày càng cao.

Sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới đòi hỏi phải dựa trên một nền tảng chính trị tinh thần, kinh tế, văn hoá, khoa học công nghệ vững chắc; đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội phải luôn dồi dào và có sự hài hoà giữa tâm lực, thể lực và trí lực.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, trước những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức trong thời kỳ phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế có tính chất toàn cầu đòi hỏi hệ thống thư viện trong toàn quân hoạt động với tư cách như một cơ quan không chỉ lưu trữ, phục vụ theo phương thức truyền thống, khép kín mà phải hoạt động như một trung tâm sản xuất, cung cấp, định hướng, trao đổi, …thông tin/tài liệu theo hướng chủ động, có tính hệ thống,.. để làm được điều đó, cần phải có những quan điểm mới trong hoạt động xây dựng, phát triển và chia sẻ NLTTĐT:

Thứ nhất, sớm hình thành hệ quan điểm thống nhất về xây dựng, phát triển và chia sẻ NLTTĐT dựa trên một số nguyên tắc tắc sau:

- Nguyên tắc tất cả thông tin / dữ liệu được biến đổi, xử lý và nhập vào hệ thống một lần nhưng sử dụng nhiều lần, phục vụ nhiều mục đích khác nhau;

- Trong quá trình tổ chức, tạo lập, quản trị và khai thác hệ thống, cần xem xét bốn cấp quản trị:

+ Cấp tài liệu gốc và/hoặc dữ liệu toàn văn;

+ Cấp thư mục;

+ Cấp tóm tắt;

+ Cấp dữ kiện hoặc số liệu.

- Mỗi thông tin/tài liệu/dữ liệu đưa vào hệ thống phải qua các công đoạn, tuân thủ đúng quy trình và các chuẩn nghiệp vụ bảo đảm cho việc bao gói, lưu trữ, bảo quản, khai thác, chia sẽ, chuyển đổi dữ liệu ở mức an toàn, chuẩn xác nhất trong toàn hệ thống.

Thứ hai, phải xây dựng cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch và đề án phát triển NLTTDT cho toàn hệ thống.

Việc xây dựng và phát triển NLTTĐT cho một cơ quan TT – TV nói riêng và cho một hệ thống thư viện nói chung là một việc làm có tính chiến lược và dài hạn, tốn kém, do vậy, phải xây dựng chiến lược, chính sách phát triển NLTTĐT, trong mỗi giai đoạn chúng ta lại xây dựng một kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu đề ra trong giai đoạn đó trên cơ sở xây dựng các đề án để xin kinh phí đầu tư thích đáng, đáp ứng nhu cầu phát triển của thư viện. Việc làm này, sẽ giúp chúng ta có được hành lang pháp lí trong việc phân công, điều phối việc xây dựng NLTTĐT trong toàn hệ thống, định hình được hướng đi và mục tiêu hướng tới trong quá trình hoạt động, xác định được nội dung và loại hình cần tập trung chú trọng, tránh sự chệch hướng trong quá trình bổ sung tài liệu điện tử, tránh sự chồng chéo trong quá trình triển khai trên toàn hệ thống, tránh sự lãng phí trong kinh phí, nhân lực và vật lực đồng thời giúp chúng ta giải trình được các vấn đề về mục tiêu phát triển, mục tiêu đầu tư, cũng như nhu cầu về tài chính, biên chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị để thực hiện việc phát triển NLTTĐT trong từng giai đoạn cụ thể và lâu dài một cách tổng thể đối với cấp trên.

Trong đó, vấn đề xác định nội dung và loại hình tài liệu điện tử cần tập trung trong HTTVQĐlà vấn đề then chốt và cốt lõi trong quá trình xây dựng và phát triển NLTTĐT của hệ thống thư viện quân đội.

Thứ ba, xác định rõ không gian thông tin bao gồm nội dung, loại hình tài liệu cần quan tâm trong quá trình xây dựng và phát triển NLTTĐT trong hệ thống thư viện quân đội.

Ngoài việc chọn lọc, bổ sung các tài liệu về khoa học quân sự, kĩ thuật quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự, nghệ thuật quân sự, lịch sử quân sự, các chuyên ngành đặc thù của các quân, binh chủng,... thì HTTVQĐ cần tập trung xây dựng các sản phẩm thông tin điện tử như sau:

 - Xây dựng các CSDL thư mục quân sự:

+ Xây dựng mục lục liên hợp sách quân sự quốc gia;

+ Xây dựng CSDL tên các ấn phẩm định kỳ quân sự trong nước;

+ Xây dựng CSDL tên các ấn phẩm định kỳ quân sự nước ngoài;

+ Xây dựng CSDL tên các luận án, luận văn chuyên ngành quân sự;

+ Xây dựng CSDL tên các công trình nghiên cứu khoa học được bảo vệ trong Bộ quốc phòng;

+ Xây dựng CSDL tên các cuộc hội thảo khoa học của BQP;

......

- Xây dựng CSDL dữ kiện:

+ Cuộc đời, sự nghiệp các tướng lĩnh Việt Nam;

+ Anh hùng Quân đội Việt Nam qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ;

+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng;

+ Các nhà văn, nhà thơ Quân đội;

+ Các loại vũ khí, trang bị;

.....

- Xây dựng các bộ sưu tập số:

+ Cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh;

+ Cuộc đời, sự nghiệp các tướng lĩnh Việt Nam;

+ Kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước;

+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Nhà nước của Bộ Quốc phòng;

+ Luận văn, luận án sau đại học thuộc các trường quân sự;

+ Các tác phẩm văn học viết về đề tài chiến tranh cách và Quân đội Việt Nam;

+ Công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam;

....

Thứ tư, lựa chọn công nghệ số hóa và thống nhất các tiêu chuẩn xử lí tài liệu số hóa.

Việc lựa chọn phương thức phát triển là việc hết sức cần thiết và cần phải cân nhắc kĩ, ngoài việc mua tài liệu điện tử, trao đổi với các thư viện có diện đề tài bao quát liên quan thì khâu số hóa tài liệu truyền thống là vô cùng quan trọng.

Nếu trong trường hợp vốn tài liệu truyền thống của đơn vị không nhiều, thì chúng ta nên thuê các công ty số hóa bên ngoài để thực hiện việc số hóa, và chỉ tập trung vào khâu vận hành tài liệu số hóa. Việc này, hạn chế được việc mua trang thiết bị, đào tạo nhân lực, thời gian số hóa, xử lí tài liệu số hóa,…

Trong trường hợp, khối lượng tài liệu truyền thống nhiều, nhân lực và cơ sở vật chất có khả năng đáp ứng yêu cầu công việc, chúng ta có thể tự tiến hành số hóa bằng cách mua máy số hóa, nghiên cứu quy trình, cũng như thống nhất các tiêu chí kĩ thuật trong quá trình xử lí tài liệu số hóa, cách thức quản lí tài liệu số sao cho phù hợp với đối tượng phục vụ của mỗi thư viện và thống nhất trong toàn hệ thống.

Tùy thuộc vào đặc điểm của từng loại hình tài liệu mà ta có thể lựa chọn các công nghệ, máy số hóa và phần mềm xử lí tài liệu số hóa có đặc tính phù hợp tương ứng. Các tiêu chuẩn kĩ thuật để xử lí tài liệu số hóa phải bảo đảm được các chức năng: lưu trữ, bảo quản, phục vụ, khai thác và chia sẻ một cách hiệu quả, tối ưu và an toàn nhất.

Thứ năm, xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách phát triển NLTTĐT:

Cần xác lập các qui chế kiểm soát, thu thập, xử lý, bảo quản nguồn tin quân sự trong nước, trong đó cần đặc biệt chú ý việc xây dựng:

- Quy định về điều kiện kỹ thuật kho bảo quản, lưu giữ TT/TL điện tử;

- Chính sách về chuyển giao, giao nộp, lưu trữ, khai thác, phổ biến, trao đổi TT/TL nói chung và tài liệu điện tử nói riêng trong toàn quân, trong đó đặc biệt chú ý đến chính sách giao nộp lưu chiểu và quản lí các TL nội sinh của Bộ quốc phòng ;

- Quy định về kinh phí lưu giữ, khai thác, chia sẻ và cung cấp TT /TL điện tử;

- Tiêu chuẩn nghiệp vụ TT-TV thống nhất trong toàn quân

Thứ sáu, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và quản lý NLTTĐT

+ Trong quản lí, chỉ đạo:

Hiện nay, các cơ quan thông tin – thư viện trong quân đội do tính đặc thù nên có nhiều cơ quan quản lí (nơi thì do cơ quan chính trị quản lí, nơi thì do phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường quản lí, Nơi thì thì do Phòng Đào tạo- Huấn luyện quản lí ) gây khó khăn, trong việc quản lí và chỉ đạo nghiệp vụ, phân tán nguồn lực thông tin, không thống nhất về quy trình và chuẩn nghiệp vụ, khó khăn và bất tiện cho người sử dụng, lãng phí nguồn nhân lực, tài chính và trang thiết bị kỹ thuật, cán bộ thư viện cấp dưới thường phải kiêm nhiệm,... Vì vậy, trong thời gian tới, để tập trung nguồn lực thông tin, thống nhất quy trình và chuẩn nghiệp vụ thông tin – thư viện, tiết kiệm được các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực,...), thuận lợi cho việc chỉ đạo và quản lí,... đòi hỏi cần phải có cơ cấu tổ chức, biên chế hợp lí và thống nhất trong quản lí.

+ Trong tổ chức kỹ thuật của mạng:

Cơ cấu tổ chức kỹ thuật trong việc phát triển NLTTĐT trong HTTVQĐ có thể bao gồm :

- Một cơ quan điều phối: là cơ quan đầu não của hệ thống (gọi là cơ quan đầu hệ) thực hiện 2 chức năng chính: Kiểm tra - điều phối và Tra cứu - hướng dẫn.

Chức năng kiểm tra - điều phối bao gồm:

+ Phân công và phối hợp giữa các cơ quan TT TV trọng điểm;

+ Phân bố và kiểm tra các nguồn lực của toàn hệ thống;

+ Quản lý hoạt động của toàn hệ thống;

+ Kiểm tra và đánh giá chất lượng hoạt động của từng cơ quan TTTV trong hệ thống và của toàn hệ thống;

+ Thực hiện việc thống kê, báo cáo, kế hoạch của các cơ quan TTTV trong hệ thống và toàn hệ thống.

Chức năng tra cứu - hướng dẫn bao gồm:

+ Hoàn thiện quy trình công nghệ, tiêu chuẩn kĩ thuật thống nhất trong toàn hệ thống;

+ Tạo lập các CSDL tích hợp cho toàn hệ thống;

+ Duy trì các yếu tố hỗ trợ đảm bảo trong toàn hệ thống: xây dựng Bộ từ khóa quân sự, Bộ chủ đề quân sự, Danh mục các kí hiệu môn loại chuyên ngành quân sự thống nhất toàn quân, hạ tầng công nghệ, đội ngũ cán bộ.

Vai trò trung tâm điều phối của HTTVQĐ do TVQĐ thuộc TCCT đảm trách.

- Các cơ quan TT-TV trọng điểm của hệ thống là các phần tử hợp phần chức năng của toàn hệ thống thực hiện các quá trình xây dựng và phát triển NLTTĐT như: đăng ký, bổ sung, xử lý, lưu trữ, khai thác và cung cấp TT/TL điện tử theo qui trình công nghệ và cấu trúc chuẩn nghiệp vụ thống nhất. Việc xác định danh sách các cơ quan TT-TV này, qui mô của chúng phụ thuộc hiện trạng và xu thế phát triển của các đơn vị quân đội trong từng thời kỳ.

Thứ bảy, tăng cường việc phối hợp và chia sẻ NLTTĐT.

Hiện nay, các cơ quan thông tin – thư viện trong quân đội về cơ bản vẫn hoạt động theo chế độ khép kín và tự trị. Phần do nhiều cơ quan quản lí và chỉ đạo hoạt động. Phần do chưa có chính sách chia sẻ NLTT; Phần do nguồn lực thông tin hạn chế, thiếu tính hệ thống, lại bị phân tán,...nên gây khó khăn, cản trở trong hoạt động và khó để hình thành một không gian thông tin thống nhất trong toàn quân. Vì vậy, việc cần làm trong thời gian tới để đẩy mạnh hoạt động chia sẻ NLTT là xây dựng quy định tạo lập và chia sẻ NLTTĐT giữa các cơ quan quản lí và phục vụ, khai thác TT – TV trong Bộ quốc phòng.

Thứ tám, hoàn thiện hạ tầng mạng, mở rộng kết nối đến các đơn vị cấp dưới.

Hiện nay, mạng truyền số liệu của BQP (mạng MISTEN) mới chỉ kết nối đến các cơ quan, đơn vị trực thuộc BQP, các phòng Thông tin Khoa học quân sự thuộc các quân khu và tương đương, chưa kết nối đến các thư viện sư đoàn, trung đoàn nên rất khó khăn trong việc phục vụ, khai thác và chia sẻ thông tin trong toàn hệ thống. Vì vậy, trong thời gian tới, cần nghiên cứu, đề xuất phương án phát triển hạ tầng mạng MISTEN đến các đơn vị cơ sở sao cho phù hợp và hiệu quả.

Thứ chín, tổ chức và nghiên cứu các dịch vụ để khai thác NLTTĐT

Việc khai thác thông tin hiện nay trong các cơ quan thông tin – thư viện quân đội còn nhiều hạn chế. Để nâng cao năng lực khai thác, cần chỉ đạo hoạt động phát triển và hoàn thiện các dịch vụ hiện có, hình thành các dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu bạn đọc nhằm khai thác tối đa NLTTĐT trong toàn hệ thống.

KẾT LUẬN

Trong xã hội hiện đại, thông tin trở thành một nguồn lực quan trọng sánh ngang với các nguồn lực truyền thống như nhân lực, vật lực, tài lực,...Cũng như các nguồn lực khác, NLTT cần được tạo lập, quản trị một cách khoa học mới đem lại hiệu quả trong phát triển đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. 

Kinh nghiệm các nước cho thấy, trong hệ thống TTTV Quốc gia, mạng TTTV QS thường là mạng tiên tiến so với các mạng kinh tế xã hội khác như: Mạng TTTV thương mại (TradeNet), Mạng TTTV đầu tư (InvestNet), Mạng TTTV pháp luật (LawNet), Mạng TTTV Y tế (MediNet)...Ở nước ta, so với các mạng TTTV trong khu vực kinh tế xã hội, HTTVQĐ còn có khoảng cách đáng kể cần được san lấp. Để đạt được ngang tầm như các mạng TTTV khác của quốc gia, khắc phục những tồn tại của HTTTTVQ đã nêu trên, trong thời gian tới, Thủ trưởng BQP cần hoàn thiện cơ sở pháp lí, cơ chế, chính sách, đặc biệt trong vấn đề đầu tư phát triển và chia sẻ nguồn lực thông tin điện tử trong hệ thống để nhanh chóng tạo lập cho QĐ một nguồn lực TT tích hợp lớn mạnh và an toàn với khả năng tương tác, chia sẻ, trao đổi, khai thác cao, đáp ứng tối đa nhu cầu nghiên cứu, đào tào, huấn luyện, nâng cao trình độ nhận thức và văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân góp phần xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Xây dựng và chia sẻ nguồn lực thông tin địa phương dạng số phục vụ bảo tồn di sản và phát triển kinh tế - xã hội: Kỷ yếu Hội nghị - Hội thảo.- H.: 2011.

2. Bộ Văn hóa – Thông Tin. Quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Thư viện Việt nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Số 10/2007/QĐ-BVHTT.

3. Công tác thư viện – thông tin trong quân đội nhân dân Việt Nam: Tài liệu nghiệp vụ dùng cho cán bộ thư viện.-H.: Văn học, Thư viện Quân đội, 2012.-215tr.

4. Nguyễn Tiến Đức (2005), “Xây dựng thư viện điện tử và vấn đề số hoá tài liệu ở Việt Nam”. Tạp chí Thông tin & Tư liệu, 

5. Nguyễn Hữu Hùng (2002), Vấn đề phát triển nguồn lực thông tin trong bối cảnh thông tin mới: Kỷ yếu hội thảo khoa học: ứng dụng CNTT trong công tác thư viện nhằm nâng cao chất lượng phục vụ nhu cầu nghiên cứu KH&CN.

6. Nguyễn Hữu Hùng (2005), Vấn đề tạo lập và chia sẻ nguồn lực thông tin số tại Việt Nam.- Hội thảo khoa học "Quản trị và chia sẻ nguồn tin số hóa"

7. Nguyễn Hữu Hùng. Hệ quan điểm xây dựng và phát triển hệ thống TT phục vụ quy hoạch lãnh thổ và phát triển lực lượng sản xuát. Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước. H., Ủy ban phân vùng kinh tế Trung ương. 1989.

8. Nguyễn Hữu Hùng. Cơ sở khoa học và thực tiễn hiện đại hóa hệ thống thông tin KH&CN quốc gia. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ. H., Bộ KH&CN, 2005.

9. Tạ Bá Hưng (2000), Phát triển nội dung số ở Việt Nam: Những nguyên tắc chỉ đạo.- Tạp chí Thông tin & Tư liệu,

10. Pháp lệnh thư viện. Số 31/2000/PL-UBTVQH10

11. Trần Nữ Quế Phương. Vấn đề phát triển nguồn lực thông tin điện tử trong các thư viện hiện nay.//TC TV, 2011, số 5(31) tr. 26 - 32.

12. Trần Nữ Quế Phương. Quá trình hiện đại hóa thư viện quân đội: trực trạng và xu hướng phát triển // Kỷ yếu Thư viện Quân đội và Hệ thống thư viện quân đội – 55 năm xây dựng và phát triển: Nhân kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Thư viện Quân đội 15/11/1957 – 15/11/2012).-H.: Thư viện Quân đội, 2012.

13. Trần Nữ Quế Phương. Luận bàn về quan điểm hiện đại hóa hệ thống thư viện quân đội //Tạp chí Thư viện Việt Nam, tháng 9/2012 

14. Trần Nữ Quế Phương. Vấn đề phát triển nguồn lực thông tin điện tử trong các thư viện hiện nay//Tạp chí Thư viện Việt Nam, 2011, số 5(31) tr. 26 - 32.

15. Trần Nữ Quế Phương. Một số vấn đề về số hóa tài liệu//Chuyên san Sách giáo dục và Thư viện trường học.- H.: Giáo dục, 2013

Đại tá, Thạc sỹ Trần Thị Bích Huệ - Giám đốc Thư viện Quân đội

Thiếu tá, NCS Trần Nữ Quế Phương - Truởng phòng Thông tin – Thư mục – Máy tính



Mạng xã hội

Giờ mở cửa

07:30 - 16:30

Thứ Hai - Thứ Bảy

Nghỉ Chủ nhật, Ngày lễ

Thống kê truy cập

Hôm nay

Trong tháng

Trong năm

Trực tuyến

Tổng cộng

5866

67783

67881

0

67881

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THƯ VIỆN QUÂN ĐỘI - TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Địa chỉ: Số 83 - Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm - Hà Nội *Tel: 069.554.546 * Email: thuvienquandoi@gmail.com

Website: thuvienquandoi.vn * Chịu trách nhiệm nội dung: Đại tá, Thạc sỹ Mạc Thùy Dương - Giám đốc Thư viện Quân đội.

Quyết định cho phép thiết lập trang thông tin điện tử số 880/QĐ-CT, Ngày 25/6/2010 của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị

® Ghi rõ nguồn thuvienquandoi.vn khi phát hành lại thông tin từ Cổng TTÐT TVQĐ.