Tóm tắt: Khái lược các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội về phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi số ngành thư viện; Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội; Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu chuyển đổi số hoạt động thư viện trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Chuyển đổi số (CĐS) là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên công nghệ số. Đẩy mạnh CĐS đang được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, đem lại những thành công vượt trội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số và làm thay đổi phương thức quản lý, tiêu dùng cũng như đời sống văn hóa xã hội. Do đó, CĐS là một xu thế tất yếu, là bước đi quan trọng để mỗi quốc gia, mỗi ngành, lĩnh vực tạo ra sự phát triển đột phá. Một trong những yếu tố để thúc đẩy CĐS đó là: Nhận thức, thể chế, hạ tầng số, nền tảng số, bảo đảm an toàn, an ninh mạng; hợp tác, nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong môi trường số; nguồn nhân lực số. Trong đó, nguồn nhân lực số là một trong những nhân tố then chốt, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của quá trình CĐS của mỗi quốc gia, mỗi ngành, lĩnh vực trong đó có ngành thư viện trong Quân đội nhân dân Việt Nam (gọi ngắn là ngành thư viện trong Quân đội).
1. Các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, Quân đội về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số
Cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và các nhân, đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư. Trong đó, vấn đề phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là yêu cầu của cuộc CMCN lần thứ tư luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, xác định xuyên suốt, đặc biệt trong khoảng 10 năm trở lại đây, vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực công nghệ thông tin (CNTT) đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, chú trọng.
Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế” , xác định việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phải gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và đặt mục tiêu “Phát triển nguồn nhân lực CNTT đạt chuẩn quốc tế, đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước về số lượng và chất lượng, có khả năng cung cấp nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao cho khu vực và thế giới” và giải pháp “Ưu tiên bố trí vốn đầu tư cho các chương trình, kế hoạch, dự án ứng dụng, phát triển CNTT, đào tạo nhân lực CNTT … Đổi mới chính sách thu hút và đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức CNTT. Hoàn thiện hệ thống chức danh, chế độ lương, thưởng, phụ cấp phù hợp đối với cán bộ, công chức, viên chức CNTT, người có đóng góp sáng chế, phát minh, cải tiến có giá trị”.
Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư” đặt ra mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và chính sách phát triển nguồn nhân lực là một trong 8 chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư.
Hiện thực hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 “Về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN lần thứ tư” yêu cầu các bộ, ban, ngành, các cơ quan, đơn vị, địa phương tập trung đẩy nhân lực CNTT và truyền thông và thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới.
Trung tá Trần Nữ Quế Phương tham luận tại Hội thảo khoa học "Đào tạo lại nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển
đổi số ngành thư viện ở Việt Nam" do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức năm 2023.
Đặc biệt, năm 2020, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó xác định nhiệm vụ “Lựa chọn, đào tạo, tập huấn đội ngũ tối thiểu 1000 chuyên gia về CĐS cho ngành, lĩnh vực, địa phương. Các chuyên gia này tiếp tục đào tạo lại cho cán bộ liên quan ở cơ quan, tổ chức mình và trở thành lực lượng nòng cốt để dẫn dắt, tổ chức và lan tỏa tiến trình CĐS quốc gia” . Theo đó, trong nhiều đề án, chương trình, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực mũi nhọn của chính phủ, các bộ, ngành, lĩnh vực đều quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực CNTT, nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng và triển khai áp dụng chuẩn kỹ năng nhân lực CNTT, xây dựng chính sách ưu đãi thuế, thu hút và đãi ngộ, chế độ phụ cấp đặc thù đối với nguồn nhân lực CNTT trong cơ quan nhà nước.
Quan điểm này được thể hiện sâu sắc, toàn diện và nhất quán trong toàn bộ Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, từ quan điểm chỉ đạo cho đến định hướng phát triển, nhiệm vụ, giải pháp, Đảng ta xác định: “nguồn lực con người là quan trọng nhất”; “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc CMCN lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Đồng thời, yêu cầu “ Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”, “Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội”.
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động thúc đẩy thực hiện CĐS; phổ cập kỹ năng số cho các đối tượng tham gia vào quá trình CĐS quốc gia, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CĐS trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương. Đây cũng chính là sự khẳng định của Chính phủ về việc coi trọng nhân lực số trong giai đoạn tới.
Từ những định hướng của Đảng, Chính phủ đã có những văn bản quan trọng thể chế hóa về phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa nói chung và trong thư viện nói riêng. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đã đưa ra những định hướng trong phát triển nguồn nhân lực bao gồm: xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp chuyên ngành văn hóa; đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, chuyển đổi số. Đẩy mạnh thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc trong các thiết chế văn hóa như: nhà hát, thư viện, bảo tàng,…đặc biệt các thiết chế văn hóa ở vùng sâu, vùng xa, …
Trong lĩnh vực thư viện, Chương trình CĐS ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã xác định các giải pháp trong phát triển và nâng cao nguồn nhân lực, trong đó tập trung “đổi mới chương trình, hình thức và đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại, tập huấn nhằm nâng cao nhận thức, trình độ, kỹ năng về chuyển đổi số cho cán bộ quản lý và người làm công tác thư viện”.
Các chính sách về bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực thư viện cũng được thể chế hóa trong Luật Thư viện , trong đó, khoản 1, Điều 5 của Luật xác định: Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và phát triển nguồn nhân lực thư viện là một trong những nội dung đầu tư của Nhà nước cho thư viện công lập. Cùng với đó là hình thành một hệ thống bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thư viện với vai trò của Thư viện Quốc gia Việt Nam trong việc “hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho các thư viện trong cả nước”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thư viện trong phạm vi cả nước và có trách nhiệm: “chỉ đạo thực hiện liên thông thư viện; chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ thư viện, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực thư viện, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong hoạt động thư viện.
Đối với Bộ Quốc phòng, để tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa trong Quân đội, ngày 24/11/2020, BQP ra Quyết định số 3672/QĐ-BQP Ban hành “Quy hoạch hệ thống Thiết chế văn hóa trong QĐNDVN, giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó, xác định có cơ chế, chính sách để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; đổi mới và hoàn thiện chính sách, phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ nhân lực cán bộ văn hóa văn nghệ cao cấp, chuyên sâu. Thu hút, phát triển đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia trong và ngoài Quân đội (kể cả nước ngoài) tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển ứng dụng công nghệ, các chương trình đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của Quân đội .
Quán triệt các quan điểm của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII về xây dựng, gìn giữ và phát triển những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ, TCCT đã xây dựng Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến 2030 trong QĐNDVN, trong đó, đặt ra mục tiêu: hoàn thiện cơ chế, chính sách, thu hút, trọng dụng nhân tài, đãi ngộ trí thức, phát huy nguồn lực giá trị văn hóa trong Quân đội; Đa dạng hóa các loại hình đào tạo và hoàn chỉnh hệ thống quy trình, chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo văn hóa…đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Quân đội thời kỳ mới; Quan tâm đầu tư, khuyến khích, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát huy thành tựu khoa học, công nghệ gắn với CĐS lĩnh vực văn hóa trong Quân
2. Các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội về chuyển đổi số ngành Thư viện
Trong hơn thập kỷ qua, đặc biệt là 5 năm trở lại đây, Đảng, Nhà nước, Quân đội luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai ứng dụng khoa học & công nghệ, CĐS và đẩy mạnh năng lực tiếp cận cuộc CMCN lần thứ tư trong mọi ngành, lĩnh vực, trong đó có ngành thông tin, thư viện.
Luật Thư viện ra đời, mở ra hướng phát triển mới cho ngành thư viện trong tương lai. Các vấn đề về liên thông thư viện, phát triển thư viện số, hiện đại hóa thư viện được làm rõ trong 03 Điều: Điều 29: Liên thông thư viện, Điều 31: Phát triển thư viện số, Điều 32: Hiện đại hóa thư viện. Trong đó, tập trung làm rõ việc chia sẻ, sử dụng chung tài nguyên thông tin giữa các thư viện; xây dựng, tổ chức, bảo quản, khai thác tài nguyên thông tin số, phát triển thư viện số, số hóa tài liệu, quản trị thư viện số; xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật hiện đại bảo đảm triển khai, vận hành thư viện số và tự động hóa thư viện; tạo lập, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thư viện hiện đại; xây dựng mạng lưới thư viện; nghiên cứu, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, hệ thống dữ liệu lớn, điện toán đám mây, truy cập mở và thành tựu khoa học, công nghệ mới hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của thế giới trong hoạt động thư viện .
Ngày 11/2/2021, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó, xác định 70% tài liệu nội sinh, các công trình nghiên cứu khoa học do các thư viện chuyên ngành thu thập và quản lý được số hóa; 100% các thư viện có vai trò quan trọng hoàn thiện và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số, triển khai liên thông, chia sẻ tài nguyên và sản phẩm thông tin, thư viện theo chức năng, nhiệm vụ; trong đó, các nội dung xây dựng, hoàn thiện và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số, nền tảng số, bảo đảm an toàn, an ninh mạng được xác định là một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của Chương trình .
Hiện thực các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, ngày 03/6/2021 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Công văn số 1820/BVHTTDL-TV đề nghị các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,... tiếp tục triển khai Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng, trọng tâm là xây dựng kế hoạch tiếp tục thực hiện Đề án giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, trong đó, đặc biệt chú trọng đổi mới hoạt động thư viện, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thư viện gắn với việc CĐS .
Cùng với đó, ngày 9/12/2022, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1520/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình “Đẩy mạnh các hoạt động phục vụ học tập suốt đời trong thư viện, bảo tàng, trung tâm văn hóa đến năm 2030” của Thủ tướng Chính phủ đã xác định tăng cường ứng dụng CNTT và CĐS, hiện đại hóa phương thức tổ chức các hoạt động, dịch vụ phục vụ học tập suốt đời phù hợp với từng vùng, miền, địa phương; đổi mới phương thức hoạt động và cung ứng sản phẩm, dịch vụ trên nền tảng công nghệ số; tăng cường hợp tác trong tạo lập và chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các thiết chế văn hóa và cơ sở giáo dục, cơ quan, tổ chức hỗ trợ người dân học tập suốt đời; tăng cường bổ sung nguồn lực thông tin để nâng cao năng lực hoạt động của các thư viện,...
Để tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả của các thiết chế văn hóa trong Quân đội, ngày 24 tháng 11 năm 2020, Bộ Quốc phòng (BQP) đã ra Quyết định số 3672/QĐ-BQP ban hành Quy hoạch hệ thống Thiết chế văn hóa trong Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 , trong đó, xác định giai đoạn 2021-2025 từng bước hiện đại hóa hoạt động thư viện, ứng dụng thí điểm đọc sách, báo điện tử cho một số thư viện cấp sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn đủ quân, đẩy mạnh đa dạng hóa nguồn tài liệu,...định hướng đến năm 2030 thực hiện hiện đại hóa hoạt động thông tin, thư viện, ứng dụng phổ biến thư viện điện tử cho hệ thống thư viện các cấp.
Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu và nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội, BQP đã ban hành Thông tư 138/2020/TT-BQP của BQP Quy định chế độ, định mức, tiêu chuẩn đời sống văn hóa, tinh thần trong QĐND Việt Nam quy định: ngoài bảo đảm sách giấy theo quy định, còn bảo đảm sách 5.000 trang sách điện tử/người/năm đối với đơn vị được trang bị đủ máy vi tính có nối mạng Internet và mạng truyền dữ liệu quân sự đến các thư viện, phòng đọc.
Cùng với đó, BQP xây dựng, ban hành, triển khai, nhiều chiến lược, chương trình, kế hoạch về CĐS, xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số các ngành, lĩnh vực trong Quân đội, trong đó đã có ngành thư viện. Trong Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 của BQP , của TCCT đã xác định xây dựng Dự án chuyển đổi số ngành thư viện trong Quân đội, xây dựng CSDL dữ kiện về quân sự phục vụ tra cứu dùng chung trong BQP là một trong những nội dung, nhiệm vụ chính của BQP, TCCT và Thư viện Quân đội trong thời gian tới.
Trên đây là những chủ trương lớn, công cụ pháp lý giúp ngành Thư viện Việt Nam nói chung và hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội nói riêng có cơ sở, căn cứ nghiên cứu, đề xuất hệ thống các giải pháp phát triển, kiện toàn mạng lưới thư viện; nâng cao chất lượng, đổi mới hoạt động, xin đầu tư dự án, triển khai thực hiện hoạt động ứng dụng công nghệ và CĐS, phát triển nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số hoạt động thông tin, thư viện... đúng định hướng, phù hợp với xu thế, tạo sự đột phá trong hoạt động của ngành thư viện.
2. Khái quát về hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam là một bộ phận của công tác Đảng, công tác chính trị trong QĐND Việt Nam, hoạt động của các thư viện, phòng đọc đóng vai trò quan trọng là công cụ, nguồn lực đặc biệt để phục vụ công tác nghiên cứu, tham mưu, ra quyết định, hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chiến lược quân sự, quốc phòng; phục vụ đào tạo, huấn luyện; góp phần định hướng đọc, định hướng thông tin, phát triển văn hóa đọc, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong và ngoài Quân đội.
Hệ thống thư viện, bao gồm:
Thư viện Quân đội (TVQĐ) là thư viện khoa học tổng hợp chuyên ngành quân sự cấp nhà nước, là cơ quan nghiệp vụ đầu ngành của Hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội, trực thuộc Tổng cục Chính trị (TCCT). Chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Cơ quan TCCT; sự chỉ huy, quản lý về mọi mặt của Thủ trưởng TCCT; quản lý nhà nước của Cục Tuyên huấn. Có chức năng tham mưu giúp Thủ trưởng BQP, Thủ trưởng TCCT về công tác thư viện và hoạt động sách báo trong quân đội.
Các thư viện trực thuộc nhà văn hóa, được tổ chức ở các đơn vị có biên chế nhà văn hóa, chịu sự quản lý, chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan tuyên huấn cùng cấp, trực tiếp là nhà văn hóa, bao gồm: Thư viện các quân khu, quân chủng, quân đoàn, binh chủng; sư đoàn, trung đoàn, lữ đoàn đủ quân; binh đoàn và tương đương; sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về nghiệp vụ của TVQĐ.
Các thư viện trực thuộc cơ quan thông tin, khoa học quân sự, được tổ chức ở các học viện, nhà trường, cơ quan nghiên cứu, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy, ban giám đốc (ban giám hiệu) học viện, nhà trường, trực tiếp là cấp ủy, chỉ huy phòng (ban) thông tin, khoa học quân sự; sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ của TVQĐ và cơ quan chính trị cùng cấp.
Hệ thống phòng đọc, bao gồm:
Phòng đọc độc lập được tổ chức ở các trường quân sự, bệnh viện, đoàn an điều dưỡng, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy, ban giám hiệu (ban giám đốc) trường quân sự, bệnh viện, đoàn an dưỡng, trực tiếp là cấp ủy, chỉ huy phòng (ban) chính trị; sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ của thư viện cấp trên.
Phòng đọc tích hợp trong Phòng Hồ Chí Minh được tổ chức ở ban chỉ huy quân sự quận, huyện (tương đương), đồn biên phòng, các tiểu đoàn đủ quân, hải đoàn, hải đội, trạm ra đa, đại đội cao xạ, phi đội, kho. Phòng đọc tích hợp trong phòng sinh hoạt chung được tổ chức ở các đoàn kinh tế quốc phòng, các đội, xưởng, đại đội, đơn vị có quân số ăn, ở tập trung tương đương cấp đại đội; chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy đơn vị; sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ của cơ quan tuyên huấn, nhà văn hóa và thư viện cấp trên.
Cùng với sự phát triển của Quân đội, hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội không ngừng được củng cố và phát triển, được tổ chức theo đơn vị hành chính của Quân đội từ Bộ đến các đơn vị cơ sở trong toàn quân, đến nay, toàn quân có hàng trăm thư viện, phòng đọc hoạt động đi vào nền nếp, hiệu quả, thiết thực.
Những năm qua, đón đầu chủ trương chuyển đổi số của Chính phủ, BQP đã đầu tư và triển khai nhiều dự án về ứng dụng CNTT, số hóa, hiện đại hóa, thông minh hóa, mạng hóa cho các cơ quan, đơn vị, trong đó có nhiều dự án về ngành thông tin, thư viện. Kết quả bước đầu đã xây dựng được một hệ thống thư viện số dùng chung với hơn 2 triệu biểu ghi của hơn 40 cơ quan thông tin, thư viện tham gia kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu thông qua Mạng truyền số liệu quân sự/BQP (Mạng Quân sự). Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả hoạt động chuyển đổi số ngành thư viện trong Quân đội vẫn còn ở mức khiêm tốn. Trong đó, có nhiều nguyên nhân bao gồm: sự quan tâm của Thủ trưởng các cấp, các cơ quan chức năng, lãnh đạo, chỉ huy của các cơ quan, đơn vị; hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, công nghệ; nguồn tài nguyên thông tin; chất lượng nguồn nhân lực; kiến thức, kỹ năng, thói quen của người dùng tin,...ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả hoạt động chuyển đổi số của ngành thư viện trong Quân đội . Trong đó, nguyên nhân về chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò then chốt, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình, tiến độ, chất lượng chuyển đổi số ngành thư viện trong Quân đội.
Trong thời gian tới, để đẩy mạnh CĐS ngành thư viện trong Quân đội, TVQĐ, với vai trò là thư viện đầu ngành của hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội cần nghiên cứu, tham mưu, đề xuất, triển khai thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực thông tin, thư viện đáp ứng yêu cầu CĐS của ngành góp phần cùng Quân đội thực hiện thành công CĐS hoạt động quân sự, quốc phòng đáp ứng yêu cầu xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030, xây dựng QĐND chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
3. Thực trạng nguồn nhân lực của ngành thư viện trong Quân đội
Hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội được tổ chức theo đơn vị hành chính của Quân đội từ Bộ đến các đơn vị cơ sở trong toàn quân, đến nay, toàn quân có hàng trăm thư viện, phòng đọc hoạt động đi vào nền nếp, hiệu quả, thiết thực.
Cùng với hệ thống các thư viện trong Quân đội, đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin, thư viện trong Quân đội từng bước được củng cố, nâng cao chất lượng và chuẩn hóa theo tiêu chuẩn chức danh nghiệp vụ. Theo ước tính, hiện nay, toàn quân có số lượng cán bộ, nhân viên hoạt động trong lĩnh vực thư viện tương đối lớn. Cán bộ, nhân viên thư viện ở các đơn vị trong hệ thống được biên chế như sau:
Đối với đơn vị có biên chế nhà văn hóa, trực thuộc cơ quan chính trị được biên chế như sau:
Đối với nhà văn hóa (nhóm 1), bao gồm: nhà văn hóa các quân khu, quân chủng, Bộ đội Biên phòng; nhà văn hóa (nhóm 2), bao gồm: Nhà văn hóa các quân đoàn, binh chủng và tương đương được biên chế 01 nhân viên thư viện, tốt nghiệp chuyên ngành thư viện hoặc nhóm ngành liên quan, trình độ cao đẳng.
Đối với đơn vị có biên chế nhà văn hóa (nhóm 3-a), bao gồm: nhà văn hóa Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Tư lệnh 86, Bộ Tư lệnh 969; nhà văn hóa (nhóm 4-a), bao gồm: Nhà văn hóa Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nhà văn hóa (nhóm 5-a), bao gồm: Nhà văn hóa Ban Chỉ huy Quân sự quận, huyện và tương đương; Nhà văn hóa (nhóm 5-c), bao gồm: Nhà văn hóa các Binh đoàn được biên chế 01 nhân viên thư viện kiêm nhà truyền thống, tốt nghiệp chuyên ngành thư viện hoặc nhóm ngành liên quan, trình độ cao đẳng.
Đối với các đơn vị có biên chế nhà văn hóa (nhóm 3-b), bao gồm: Nhà văn hóa sư đoàn, vùng hải quân, vùng cảnh sát biển; nhà văn hóa (nhóm 5-b), bao gồm: Nhà văn hóa Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được biên chế 01 nhân viên thư viện kiêm nhà truyền thống, truyền thanh nội bộ, tốt nghiệp chuyên ngành thư viện hoặc nhóm ngành liên quan, trình độ cao đẳng.
Đối với các đơn vị biên chế nhà văn hóa (nhóm 6), bao gồm: Nhà văn hóa lữ đoàn, trung đoàn đủ quân được biên chế nhân viên văn hóa cơ sở (kiêm nhân viên thư viện, phòng truyền thống), tốt nghiệp chuyên ngành quản lý văn hóa, trình độ cao đẳng .
Đối với thư viện trực thuộc các cơ quan thông tin, khoa học quân sự, bao gồm: các học viện, trường sĩ quan, viện nghiên cứu. Mỗi học viện, nhà trường, viện nghiên cứu được bố trí 02-05 biên chế chuyên trách, cá biệt, do đặc thù tính chất, nhiệm vụ, một số học viện, nhà trường được biên chế trên 10 đồng chí.
Qua khảo sát, đánh giá năm 2023 nguồn nhân lực của các thư viện, phòng đọc trong Quân đội có đặc điểm như sau:
Nguồn nhân lực trong hệ thống thư viện Quân đội được tổ chức theo đúng chức danh biên chế, với số lượng tương đối đông, tuy nhiên chất lượng còn chưa thực sự đồng đều, tồn tại nhiều khoảng cách khá lớn giữa các thư viện trong cùng hệ thống (như Thư viện Quân đội với thư viện cấp trung, sư đoàn,…), giữa các loại hình thư viện (thư viện thuộc cơ quan thông tin, khoa học quân sự của các học viện, nhà trường và thư viện thuộc nhà văn hóa của các cơ quan, đơn vị)…chính vì điều này đã tạo ra những thách thức lớn trong vấn đề chuẩn hóa nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số như hiện nay.
TVQĐ là thư viện đầu ngành của hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội, với đội ngũ cán bộ, nhân viên chiếm gần 10% trong tổng số đội ngũ cán bộ, nhân viên thư viện toàn quân. Đội ngũ cán bộ, nhân viên của TVQĐ cơ bản được đào tạo chính quy, 95% trình độ đại học, 30% trình độ trên đại học, 50% chuyên ngành thông tin, thư viện, 12% chuyên ngành ngoại ngữ, 7,5% chuyên ngành CNTT, còn lại là các chuyên ngành khác.
Đối với các thư viện trực thuộc nhà văn hóa ở các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, sư đoàn, trung đoàn, lữ đoàn và tương đương cơ bản được đào tạo trong Quân đội, trình độ cao đẳng chiếm 80%, chủ yếu là kiêm nhiệm, nhiều cán bộ, nhân viên chưa qua đào tạo chuyên ngành thư viện, chủ yếu là đào tạo chuyên ngành quản lý văn hóa, văn hóa cơ sở,…theo mô hình giáo dục, đào tạo truyền thống, thiếu kỹ năng làm việc và giao tiếp trên môi trường số, khả năng thích ứng, thích nghi với công nghệ hiện đại còn nhiều hạn chế.
Đối với các thư viện trực thuộc cơ quan thông tin, khoa học quân sự (thư viện ở các học viện, nhà trường), cán bộ, nhân viên cơ bản được đào tạo chính quy, trình độ đại học, trên đại học chiếm khoảng 80%, trình độ cao đẳng chiếm khoảng 20%.
Cán bộ phụ trách công tác quản lý hoạt động thư viện thường được đào tạo các chuyên ngành như chính trị, quản lý văn hóa, văn hóa cơ sở,…; thường xuyên được điều động, luân chuyển công tác nên khó khăn trong việc tiếp cận, quản lý, triển khai các hoạt động nghiệp vụ thông tin, thư viện tại đơn vị. Cán bộ, nhân viên thư viện ít có cơ hội được đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng ở nước ngoài cũng như ít được tham gia các hội thảo khoa học quốc tế chuyên ngành thông tin, thư viện; Thiếu nhiều chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực thư viện hiện đại.
Cán bộ, nhân viên có trình độ ngoại ngữ, CNTT, có khả năng quản lý, điều hành hoạt động thư viện trong môi trường số đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ còn ở mức rất khiêm tốn. Cơ cấu, tổ chức biến chế chưa thực sự hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ CĐS trong thời gian tới.
Bên cạnh những kết quả đạt được, đội ngũ cán bộ, nhân viên thư viện trong Quân đội còn nhiều bất cập, khó khăn, hạn chế trong quá trình hoạt động. Đây cũng là bài toán khó đối với Thư viện Quân đội trong quá trình triển khai thực hiện chuyển đổi số ngành thư viện trong Quân đội trong thời gian tới.
4. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành thư viện trong Quân đội
Nghiên cứu, triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số ngành thư viện trong Quân đội là yếu tố then chốt trong việc xây dựng lực lượng nòng cốt, hình thành mạng lưới chuyên gia CĐS trong Quân đội nói chung và ngành thư viện trong Quân đội nói riêng để dẫn dắt, tổ chức, lan tỏa tiến trình CĐS góp phần bảo đảm công cuộc CĐS các ngành, nghề trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng một cách nhanh, hiệu quả, bền vững và thành công. Sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành thư viện trong Quân đội trong thời gian tới:
Một là, đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị và các cơ quan chức năng trong đẩy mạnh phát triển hệ thống thiết chế văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung và hệ thống thư viện, phòng đọc nói riêng - một trong những công cụ phục vụ đắc lực công tác nghiên cứu, đào tạo, huấn luyện, nâng cao trình độ, nhận thức, đời sống văn hóa tinh thần cho bộ đội. Từ đó, làm cơ sở để ban hành, lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình, dự án xây dựng, điều chỉnh tổ chức biên chế, nâng cao và phát triển nguồn nhân lực ngành thư viện trong Quân đội góp phần thúc đẩy phát triển hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CĐS của Quân đội nói chung và ngành thư viện trong Quân đội nói riêng. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện Quy chế tổ chức hoạt động của các thiết chế văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam; Xây dựng Hướng dẫn thực hiện Quy chế tổ chức, hoạt động của hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội trên cơ sở Quy hoạch hệ thống Thiết chế văn hóa trong QĐND Việt Nam, giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030 của BQP bảo đảm tính thống nhất trong toàn hệ thống thư viện, phòng đọc toàn quân; Rà soát biểu tổ chức biên chế, kiện toàn, điều chỉnh, bổ sung kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ CĐS trong Quân đội; Cần có cơ chế khuyến khích, đãi ngộ, thu hút lực lượng CNTT, nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ba là, rà soát tổng thể, thực hiện đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy, sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển trong các học viện, nhà trường Quân đội; đặc biệt cập nhật, hoàn thiện, bổ sung các chương trình đào tạo cho học viên và chiến sĩ mới về CĐS, kỹ năng số, văn hóa số cũng như khoa học & công nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu xây dựng kinh tế số, xã hội số ở các cơ sở đào tạo, huấn luyện trong Quân đội để bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ sống và làm việc an toàn, hiểu biết, trách nhiệm trên môi trường số; Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới sáng tạo trong cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số, nền tảng số để tạo nền tảng, thói quen, kỹ năng, hiểu biết cho cán bộ, chiến sĩ trong quá trình đào tạo, huấn luyện trong môi trường Quân đội, tạo khả năng thích ứng, thích nghi với môi trường công nghệ số, với các sản phẩm và dịch vụ số, học liệu số, tài nguyên thông tin số,…
Bốn là, cán bộ chuyên trách về CNTT, CĐS và cán bộ, nhân viên hoạt động trong lĩnh vực thông tin, thư viện ngoài việc được đào tạo cơ bản, chính quy về CNTT, hằng năm cần phải được đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng quản trị thư viện số, quản trị thư viện hiện đại, kỹ năng số, năng lực số, văn hóa số đặc biệt cập nhật các kiến thức pháp lý trên môi trường số phù hợp theo yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để sống và làm việc an toàn, trách nhiệm, văn hóa trên môi trường số.
Bên cạnh nguồn nhân lực là cán bộ, nhân viên hoạt động trong lĩnh vực thông tin, thư viện được đào tạo, bồi dưỡng để triển khai, thực hiện nhiệm vụ thì cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân cũng cần được hướng dẫn, đào tạo để có kiến thức, kỹ năng, thói quen sử dụng các sản phẩm và dịch vụ số nói chung cũng như các các sản phẩm và dịch vụ thư viện số do các cơ quan thông tin, thư viện cung cấp, phổ biến để tận dụng, phát huy tối đa nguồn lực số do cộng đồng xã hội mang lại.
Năm là, để vận hành, quản lí có hiệu quả một thư viện hiện đại, một trung tâm quản trị tri thức số hay một hệ thống thư viện hiện đại, ngoài những cán bộ làm các công việc mang tính chất thao tác kỹ thuật cần phải có một đội ngũ cán bộ thông tin – thư viện chuyên nghiệp, có tầm bao quát các vấn đề liên quan đến hệ thống. Trước mắt, về cơ cấu, có thể xác định đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp bao gồm 03 nhóm cán bộ sau đây: Cán bộ xử lý, phân tích, tổng hợp thông tin, tư liệu quân sự; Cán bộ quản trị, vận hành và phát triển hệ thống mạng lưới thông tin – thư viện hiện đại trong toàn quân; Cán bộ nghiên cứu và triển khai nghiệp vụ thông tin – thư viện trong toàn quân.
Tương ứng với mỗi nhóm cán bộ trên đây, cần xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và nâng cao trình độ, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Ngoài ra, cần có quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ thông tin – thư viện hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng chuyên sâu theo hai hướng: cán bộ khoa học về thông tin – thư viện (nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận về khoa học thông tin – thư viện) và cán bộ thực hành nghề nghiệp về công tác thông tin, tư liệu (xử lý, phân tích, tổng hợp, đánh giá thông tin) .
Trong thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước măt, BQP, TCCT cần tăng cường năng lực CNTT và nguồn nhân lực CNTT cho TVQĐ và các thư viện trọng điểm của BQP đủ mạnh bảo đảm khả năng làm chủ, sáng tạo công nghệ, quản lý, vận hành mạng lưới thư viện, phòng đọc hiện đại an toàn, hiệu quả, tiết kiệm; Tạo điều kiện để cán bộ, nhân viên tham gia các khóa học đào tạo nhằm nâng cao khả năng quản lý, kiến thức, kỹ năng về CĐS, về khoa học và công nghệ hiện đại ứng dụng trong hoạt động thông tin, thư viện.
Sáu là, đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, xây dựng văn hóa số trong Quân đội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội để cán bộ, chiến sĩ nắm và hiểu các nguyên tắc, kỹ năng ứng xử trên môi trường số, tránh được các tác động tiêu cực do môi trường số mang lại góp phần xây dựng môi trường văn hóa số trong Quân đội lành mạnh, an toàn.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định đến quá trình phát triển của một cơ quan, tổ chức hay một hệ thống. Vì vậy, cần tăng cường, quan tâm, ưu tiên đầu tư đào tạo, đào tạo lại, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên thư viện, đặc biệt là cán bộ trẻ về CNTT, ngoại ngữ, nghiệp vụ thư viện hiện đại nhằm làm chủ các phương tiện, thiết bị công nghệ mới. Đặc biệt, cần đào tạo bổ sung nguồn nhân lực thư viện có khả năng xây dựng, quản trị thư viện số, tri thức số và lực lượng chuyên sâu về chuyển đổi số, quản trị mạng, an ninh mạng,… theo tiêu chí tinh, gọn, mạnh. Sẵn sàng bổ sung nguồn nhân lực cho Quân đội đáp ứng yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trong chiến tranh thông tin, tác chiến trên không gian mạng,... Bên cạnh đó, cần bố trí, cải thiện môi trường làm việc và chú trọng chế độ đãi ngộ, khen thưởng để thu hút, động viên, khích lệ đội ngũ cán bộ, nhân viên CNTT, quản trị thông tin, thư viện làm việc và cống hiến lâu dài trong Quân đội.
Để hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội tiếp tục phát triển và phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ, phục vụ đắc lực công tác nghiên cứu, tham mưu, ra quyết định, hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chiến lược quân sự, quốc phòng cho lãnh đạo, chỉ huy; phục vụ đào tạo, huấn luyện; góp phần định hướng thông tin, phát triển văn hóa đọc, nâng cao nhận thức, trình độ, chính trị tư tưởng, văn hóa, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, cần có sự quan tâm, đầu tư đồng bộ, từ cơ chế, chính sách cho đến tập trung nguồn lực lớn của Nhà nước và Quân đội, sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng, đặc biệt là sự nỗ lực của Thư viện Quân đội trong vai trò, vị thế là cơ quan nghiệp vụ đầu ngành của hệ thống thư viện trong toàn quân, sự chủ động, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, tham mưu, đề xuất của đội ngũ cán bộ, nhân viên hoạt động trong lĩnh vực thư viện để hệ thống sớm được chuyển đổi số thành công và hiệu quả, trở thành một mạng lưới thư viện hiện đại, tạo bước ngoặt nổi bật, trở thành hình mẫu, mô hình hiệu quả trong hoạt động CĐS của toàn quân, góp phần xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,... tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII/Đảng Cộng sản Việt Nam.- H.: Chính trị quốc gia, 2021.-T.1.- 291tr.; 19cm.
2. Cẩm nang chuyển đổi số/ Bộ Thông tin và Truyền thông.
3. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 (Ban hành theo Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng chính phủ).
4. Chuyển đổi số hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội nhân dân Việt Nam: Thực trạng và giải pháp/Trần Nữ Quế Phương//Kỷ yếu hội thảo khoa học Chuyển đổi số trong hệ thống thư viện Quân đội nhân dân Việt Nam.- H.: Quân đội nhân dân, 2022.
5. Kế hoạch số 1349/KH-CT ngày 15 tháng 8 năm 2022 của TCCT về Thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trong QĐNDVN (kèm theo QĐ số 3087/QĐ-BQP ngày 18/8/2022 của BQP Phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trong QĐNDVN).
6. Luật Thư viện, Luật số 46/2019/QH14, ngày 21 tháng 11 năm 2019.
7. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01 tháng 7 năm 2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
8. Quy hoạch hệ thống Thiết chế văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam, giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 của BQP (Ban hành kèm theo Quyết định số 3672/QĐ-BQP ngày 24 tháng 11 năm 2020).
9. Quyết định 206/QĐ-TTg ngày 11 tháng 02 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
10. Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28 tháng 01 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
11. Quyết định số 747/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
12. Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan thông tin, thư viện của Bộ Quốc phòng/Mạc Thùy Dương, Trần Nữ Quế Phương// Hội thảo phục vụ xây dựng Đề án: Đẩy mạnh ứng dụng KHCN trong hoạt động thư viện ở Việt Nam, năm 2020 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.