Nghiên cứu trao đổi

04/11/2022 03:01

CHUYỂN ĐỔI SỐ HỆ THỐNG THƯ VIỆN, PHÒNG ĐỌC TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyển đổi số (CĐS) đang được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, đem lại những thành công vượt trội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số và làm thay đổi phương thức quản lý, tiêu dùng cũng như đời sống văn hóa xã hội. Do đó, CĐS là một xu thế tất yếu, là bước đi quan trọng để mỗi quốc gia, mỗi ngành, lĩnh vực tạo ra sự phát triển đột phá.

Ở Việt Nam, năm 2020 được xác định là năm khởi động CĐS quốc gia. Nhận thức của toàn xã hội về CĐS được thay đổi căn bản. Năm 2021 và giai đoạn 2021-2025 sẽ là giai đoạn tăng tốc với những chương trình, hành động triển khai trên phạm vi quốc gia, ở tất cả các địa phương, các ngành, lĩnh vực. CĐS quốc gia được thực hiện trên 3 nội dung: Chính phủ số - kinh tế số - xã hội số. Do vậy, CĐS là nhiệm vụ cần sự vào cuộc quyết tâm, quyết liệt của toàn hệ thống chính trị, triển khai xuyên suốt, đồng bộ từ cấp Trung ương đến cơ sở.

Những năm qua, đón đầu chủ trương CĐS của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng (BQP) đã triển khai nhiều chủ trương lớn, thiết thực, quan tâm đầu tư nhiều dự án về ứng dụng CNTT, số hóa, hiện đại hóa, thông minh hóa, mạng hóa cho các cơ quan, đơn vị trong Quân đội; trong đó, nhiều dự án liên quan đến ngành thông tin (TT), ngành thư viện (TV).

Đến nay, BQP đã bước đầu xây dựng được một Hệ thống thư viện số dùng chung trong BQP (HTTVS/BQP) với hơn 40 cơ quan TT, TV tham gia kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu thông qua Mạng truyền dữ liệu quân sự/BQP (Mạng TDLQS). Hệ thống góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, chất lượng phục vụ, cung cấp, khai thác, chia sẻ TT, tài liệu phục vụ nghiên cứu, đào tạo, huấn luyện và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều TV, phòng đọc (PĐ) - chủ yếu là các TV trực thuộc nhà văn hóa và các PĐ ở cơ sở chưa được kết nối Mạng TDLQS; chưa được quan tâm đầu tư, trang bị đồng bộ từ phần mềm cho đến trang thiết bị công nghệ thông tin (CNTT), nên gặp nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình quản lý, cung cấp, chia sẻ, khai thác, sử dụng chung tài nguyên thông tin (TNTT) trong toàn hệ thống.

I. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân đội về ứng dụng CNTT, CĐS trong hoạt động TT-TV Việt Nam nói chung và các cơ quan TT, TV trong Quân đội nói riêng.

Trong hơn thập kỷ qua, đặc biệt là 5 năm trở lại đây, Đảng, Nhà nước, Quân đội luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai việc ứng dụng CNTT & truyền thông, CĐS, đẩy mạnh năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 trong mọi ngành, lĩnh vực, trong đó có ngành TT, TV.

Chỉ thị số 16/CT-TTg (ngày 04/5/2017) của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0, xác định: “Cuộc CMCN lần thứ 4 với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa – vật lý – sinh học với sự đột phá của Internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới”. Trong đó, Chỉ thị đã chỉ ra một trong sáu giải pháp quan trọng là: “Rà soát lại các chiến lược, chương trình hành động đề xuất xây dựng kế hoạch và các nhiệm vụ trọng tâm để triển khai phù hợp với xu thế phát triển của CMCN lần thứ 4. Xây dựng chiến lược CĐS, nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, …”. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 677/QĐ-TTg (ngày 18/5/2017) phê duyệt Đề án Hệ tri thức Việt số hóa. Mục tiêu của đề án là: Xây dựng Hệ tri thức Việt số hóa thông qua việc tổng hợp, hệ thống hóa, việt hóa, số hóa, lưu trữ và phổ biến tri thức trong mọi lĩnh vực, trước hết là hỗ trợ cho giáo dục, đào tạo, đổi mới sáng tạo và các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân,…; tạo môi trường thuận lợi thu hút mọi người dân và doanh nghiệp tham gia với vai trò vừa khai thác, vừa đóng góp để làm giàu các tài nguyên tri thức số hóa của Việt Nam,…; từng bước góp phần phát triển công nghiệp nội dung số của Việt Nam, định hướng việc sử dụng tri thức của người dùng trên môi trường mạng.

Ngày 27/9/2019, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ 4, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách để đẩy mạnh quá trình CĐS. Trên cơ sở đó, ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Đây là năm dấu mốc của Chương trình CĐS quốc gia, là năm định hình tầm nhìn cho sự nghiệp phát triển của quốc gia, là điều kiện thuận lợi để Việt Nam chủ động thai thác triệt để các cơ hội mà cuộc CMCN mang lại, bứt phá vươn lên, thay đổi thứ hạng trên trường quốc tế.

Nhân viên Thư viện Quân đội giới thiệu với Thủ trưởng Tổng cục Chính trị về nguồn tài nguyên thông tin số trên mạng quân sự và mạng internet.

Cùng thời điểm đó, Luật Thư viện ra đời, mở ra hướng phát triển mới cho ngành TV trong tương lai. Các vấn đề về liên thông TV, phát triển thư viện số (TVS), hiện đại hóa TV được làm rõ trong 03 Điều: Điều  29: Liên thông TV, Điều 31: Phát triển TVS, Điều 32: Hiện đại hóa TV. Trong đó, tập trung làm rõ việc chia sẻ, sử dụng chung TNTT giữa các TV; xây dựng, tổ chức, bảo quản, khai thác TNTT số, phát triển TVS, số hóa TL, quản trị TVS; xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật hiện đại bảo đảm triển khai, vận hành TVS và tự động hóa TV; tạo lập, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ TV hiện đại; xây dựng mạng lưới TV; nghiên cứu, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, hệ thống dữ liệu lớn, điện toán đám mây, truy cập mở và thành tựu khoa học, công nghệ mới hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của thế giới trong hoạt động TV.

Điều 13 của Luật TV khẳng định: TV lực lượng vũ trang nhân dân, ngoài thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chung của một TV còn phải xây dựng cơ sở dữ liệu, thư viện số chuyên ngành nội sinh; bổ sung và mua quyền truy cập TNTT chuyên ngành quốc phòng, an ninh; thực hiện liên thông giữa các TV trong cùng hệ thống, chia sẻ TNTT với TV trong nước và nước ngoài đảm bảo các yếu tố đặc thù của lực lượng vũ trang.

Trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII của Đảng, Trung ương đề ra 12 định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn 2021-2030. Trong đó, định hướng thứ hai xác định: …Đẩy mạnh CĐS quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo;… Định hướng thứ ba xác định: Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc CMCN lần thứ 4 vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, … Cùng với đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đưa ra quan điểm phát triển. Trong đó, có 2 quan điểm nhấn mạnh về CĐS, phát triển kinh tế số. Cụ thể là: Quan điểm thứ nhất xác định: Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ số. Phải đổi mới tư duy và hành động chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc CMCN lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế số, xã hội số,… Quan điểm thứ hai yêu cầu “…hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, CĐS…”.

Chủ trương, quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII đã mở đường cho định hướng phát triển mới của Việt Nam trong kỷ nguyên số ở tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hiện thực hóa chủ trương của Đại hội XIII, Chính phủ phê duyệt nhiều chương trình CĐS, trong đó có ngành TV. Ngày 11/02/2021 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình CĐS ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó xác định: 70% TL nội sinh, các công trình nghiên cứu khoa học do các TV chuyên ngành thu thập và quản lý được số hóa; 100% các TV có vai trò quan trọng hoàn thiện và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số, triển khai liên thông, chia sẻ tài nguyên và sản phẩm TT, TV theo chức năng, nhiệm vụ.

Ngày 03/6/2021 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Công văn số 1820/BVHTTDL-TV đề nghị các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,... tiếp tục triển khai Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng, trọng tâm là xây dựng kế hoạch tiếp tục thực hiện Đề án giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, trong đó, đặc biệt chú trọng đổi mới hoạt động TV, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ TV gắn với việc CĐS.

Đây là những chủ trương lớn, công cụ pháp lý giúp ngành TV Việt Nam nói chung và hệ thống TV, PĐ trong Quân đội nói riêng có cơ sở, căn cứ nghiên cứu, đề xuất hệ thống các giải pháp phát triển, kiện toàn mạng lưới TV; đổi mới hoạt động, xin đầu tư dự án, triển khai thực hiện hoạt động ứng dụng công nghệ và CĐS,... đúng định hướng, phù hợp với xu thế, tạo sự đột phá trong hoạt động của ngành TV.

Nhân viên Thư viện Quân đội đang thực hiện số hóa tài liệu.

Về ứng dụng CNTT trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, quan điểm và đường lối của Đảng được thể hiện rõ trong Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị, đó là “Lực lượng an ninh-quốc phòng nhanh chóng phổ cập, ứng dụng và phát triển CNTT, tạo tiền đề quan trọng góp phần xây dựng lực lượng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; từng bước xây dựng hệ thống tự động hóa chỉ hủy, kiểm soát, làm chủ, cải tiến vũ khí,...; sẵn sàng, chủ động đối phó với chiến tranh TT hiện đại”. Nhận thức rõ điều đó, BQP đã ban hành Quyết định số 255/2006/QĐ-BQP về Chiến lược ứng dụng và phát triển CNTT đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Quyết định số 105/2006/QĐ-BQP về việc phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự và quốc phòng tới năm 2010, định hướng tới năm 2020; ngày 11/01/2010, BQP ban hành Thông tư số 02/2010/TT-BQP trong đó sửa đổi, bổ sung Mục 4 của Chiến lược với sự điều chỉnh nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự và quốc phòng tới năm 2020; Quyết định số 254/2011/QĐ-BQP về phê duyệt Quy hoạch ứng dụng và phát triển CNTT đến năm 2020; Chị thị số 03/CT-BQP ngày 23/01/2014 về “Tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin và một số vấn đề tổ chức hoạt động tác chiến không gian mạng”, Chỉ thị số 94/CT-BQP ngày 27/12/2013 về “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin khoa học quân sự, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”, Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 737/QĐ-BQP ngày 13/3/2018 của BQP về “Tăng cường năng lực tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0”,...

Cùng với đó, BQP xây dựng, ban hành, triển khai, nhiều chiến lược, chương trình, kế hoạch về CĐS thuộc các ngành, lĩnh vực trong quân đội như: Triển khai Kế hoạch số 4396/KH-BQP về phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021- 2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch số 588/KH-TM ngày 04/3/2022 của Bộ Tổng Tham mưu về CĐS lĩnh vực giáo dục, đào tạo trong các nhà trường quân đội giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch số 1349/KH-CT, ngày 15 tháng 8 năm 2022 của Tổng cục Chính trị về Thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có nhiều đề án, chương trình, dự án, nội dung liên quan đến chuyển đổi số của các lĩnh vực văn hóa trong Quân đội, bao gồm cả nội dung CĐS ngành thư viện và xây dựng CSDL dữ kiện về quân sự phục vụ tra cứu, dùng chung trong toàn hệ thống thư viện của BQP đã được phê duyệt.

Để tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả của các TV nói riêng và các thiết chế văn hóa trong Quân đội nói chung, ngày 24/11/2020, BQP ra Quyết định số 3672/QĐ-BQP ban hành Quy hoạch hệ thống Thiết chế văn hóa trong QĐND Việt Nam, giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; trong đó, xác định giai đoạn 2021-2025 từng bước hiện đại hóa hoạt động TV, ứng dụng thí điểm đọc sách, báo điện tử cho một số TV cấp sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn đủ quân, đẩy mạnh đa dạng hóa nguồn tài liệu,... định hướng đến năm 2030 thực hiện hiện đại hóa hoạt động TT, TV, ứng dụng phổ biến TV điện tử cho hệ thống TV các cấp. Kiện toàn tổ chức hệ thống TV, PĐ toàn quân chính quy, đồng bộ, thống nhất, khoa học, hoạt động hiệu quả. Đồng thời Thông tư 138 của BQP (2020) quy định chế độ, định mức, tiêu chuẩn đời sống văn hóa, tinh thần trong QĐND Việt Nam, quy định: Đối với đơn vị được trang bị đủ máy vi tính có nối mạng Internet và Mạng truyền dữ liệu quân sự đến các TV, PĐ, ngoài bảo đảm sách giấy theo quy định còn bảo đảm 5.000 trang sách điện tử/người/năm. Bên cạnh đó, Tổng cục Chính trị đã ban hành Quy chế tổ chức hoạt động của các thiết chế văn hóa trong QĐND Việt Nam, trong đó, quy định về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác, tổ chức hoạt động, cơ sở vật chất, kinh phí và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, cá nhân liên quan đến các thiết chế văn hóa trong QĐND Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa nói chung và hệ thống TV, PĐ nói riêng; Quy chế Quản lý, khai thác hệ thống TVS dùng chung trong BQP (Quyết định số 3946/QĐ-BQP ngày 12/12/2020 của BQP).

II. Thực trạng ứng dụng CNTT, CĐS của hệ thống thư viện, phòng đọc trong Quân đội

Là một bộ phận của công tác Đảng, công tác chính trị trong QĐND Việt Nam, hoạt động của các TV, PĐ trong Quân đội đóng vai trò quan trọng là công cụ, nguồn lực đặc biệt để phục vụ công tác nghiên cứu, tham mưu, ra quyết định, hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chiến lược quân sự, quốc phòng; phục vụ đào tạo, huấn luyện; góp phần định hướng đọc, định hướng TT, phát triển văn hóa đọc, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong và ngoài Quân đội.  

Cùng với sự phát triển của Quân đội, hệ thống TV, PĐ trong Quân đội (HTTVPĐ) không ngừng được củng cố và phát triển, được tổ chức theo đơn vị hành chính của Quân đội từ bộ đến các đơn vị cơ sở trong toàn quân, đến nay, toàn quân có hàng trăm TV, PĐ hoạt động đi vào nền nếp, hiệu quả, thiết thực. HTTVPĐ được tổ chức cụ thể như sau:

Hệ thống TV, bao gồm:

Thư viện Quân đội (TVQĐ) là TV khoa học tổng hợp chuyên ngành quân sự cấp nhà nước, là cơ quan nghiệp vụ đầu ngành của HTTVPĐ, trực thuộc Tổng cục Chính trị (TCCT). Chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Cơ quan TCCT; sự chỉ huy, quản lý về mọi mặt của Thủ trưởng TCCT; quản lý nhà nước của Cục Tuyên huấn. Có chức năng tham mưu giúp Thủ trưởng BQP, Thủ trưởng TCCT về công tác TV và hoạt động sách báo trong quân đội.

Các TV trực thuộc nhà văn hóa, được tổ chức ở các đơn vị có biên chế nhà văn hóa, chịu sự quản lý, chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan tuyên huấn cùng cấp, trực tiếp là nhà văn hóa, bao gồm: TV các quân khu, quân chủng, quân đoàn, binh chủng; sư đoàn, trung đoàn, lữ đoàn đủ quân; binh đoàn và tương đương; sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về nghiệp vụ của TVQĐ.

Các TV trực thuộc cơ quan thông tin khoa học quân sự (TTKHQS), được tổ chức ở các học viện, nhà trường, cơ quan nghiên cứu, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy, ban giám đốc (ban giám hiệu) học viện, nhà trường, trực tiếp là cấp ủy, chỉ huy phòng (ban) TTKHQS; sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ của TVQĐ và cơ quan chính trị cùng cấp.

Hệ thống PĐ, bao gồm:

PĐ độc lập được tổ chức ở các trường quân sự, bệnh viện, đoàn an điều dưỡng, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy, ban giám hiệu (ban giám đốc) trường quân sự, bệnh viện, đoàn an dưỡng, trực tiếp là cấp ủy, chỉ huy phòng (ban) chính trị; sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ của TV cấp trên.

PĐ tích hợp trong Phòng Hồ Chí Minh được tổ chức ở ban chỉ huy quân sự quận, huyện (tương đương), đồn biên phòng, các tiểu đoàn đủ quân, hải đoàn, hải đội, trạm ra đa, đại đội cao xạ, phi đội, kho; PĐ tích hợp trong phòng sinh hoạt chung được tổ chức ở các đoàn kinh tế quốc phòng, các đội, xưởng, đại đội, đơn vị có quân số ăn, ở tập trung tương đương cấp đại đội; chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy đơn vị; sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ của cơ quan tuyên huấn, nhà văn hóa và TV cấp trên.

Trước bối cảnh thế giới và Việt Nam đang có xu hướng hệ thống hóa, tự động hóa, hiện đại hóa, đồng bộ hóa, thông minh hóa trong quản lý, xử lý, khai thác, chia sẻ, cung cấp TT, TL, BQP đã đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT&TT từ xây dựng hạ tầng mạng, đường truyền số liệu quân sự bảo đảm kết nối dữ liệu đến các đầu mối chiến lược, chiến dịch và một số đơn vị cấp chiến thuật trên các hướng, địa bàn trọng điểm. Hệ thống TT chỉ đạo, điều hành được vận hành từ bộ xuống các đơn vị. Cổng TT điện tử của các đơn vị được xây dựng, nâng cấp, tạo thuận lợi trong việc kết nối, chia sẻ, khai thác TT, TL trong toàn quân.

Cùng với đó, các cơ quan TT, TV trong Quân đội đã tận dụng và phát huy tối đa việc ứng dụng CNTT&TT trong hoạt động tổ chức, quản lý, khai thác, chia sẻ TNTT; chủ động nghiên cứu đề xuất, triển khai thực hiện các đề án, dự án hiện đại hóa TV, xây dựng TVS, phát triển TNTT số,... cho các cơ quan TT, TV trong quân đội.

Dự án đầu tiên về ứng dụng CNTT vào hoạt động TT, TV của BQP là Dự án TV điện tử, được triển khai từ năm 1998, do Trung tâm Thông tin Khoa học Quân sự/BQP (Trung tâm TTKHQS/BQP) chủ trì thực hiện, dự án triển khai qua 3 giai đoạn (1998-2020). Dự án đã xây dựng Mạng Thông tin Khoa học - Công nghệ - Môi trường Quân sự (Mạng MISTEN) kết nối đến các đầu mối cơ quan TTKHQS của BQP, là mạng diện rộng đầu tiên của BQP, các đơn vị tham gia Dự án được đầu tư xây dựng TVS, máy scan tự động, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị CNTT, thiết bị giám sát an ninh, phần mềm, cổng TT riêng cho mỗi đơn vị, xây dựng HTTVS/BQP (sử dụng phần mềm quản trị TV tích hợp của Công ty CMC) có khả năng tích hợp, xử lý, truy xuất dữ liệu lớn, tốc độ cao, đáp ứng tiêu chuẩn của một trung tâm tích hợp dữ liệu lớn hiện nay, trong đó, Trung tâm TTKHQS/BQP có vai trò là cơ quan điều phối, quản lý hoạt động của Hệ thống TVS dùng chung trong BQP.

Song song với các hoạt động của Trung tâm TTKHQS/BQP và ngành TTKHQS trong BQP, TVQĐ/TCCT, với vai trò là TV đầu ngành của hệ thống TV, PĐ trong quân đội, đã chủ động, tham mưu, đề xuất, hướng dẫn, triển khai các hoạt động hiện đại hóa, ứng dụng CNTT vào các hoạt động tại TVQĐ nói riêng và các TV trong toàn quân nói chung.

Giai đoạn 1993-2000, TVQĐ đã áp dụng phần mềm CDS/ISIS để xây dựng các CSDL thư mục chuyên đề, CSDL tài liệu mới nhập về của TVQĐ, xử lý hồi cố tài liệu, xây dựng CSDL tên Báo - Tạp chí.

Giai đoạn 2001-2016, xây dựng mạng LAN, kết nối Mạng TSLQS, mạng Internet; xây dựng trang web, xây dựng PĐ điện tử, xây dựng CSDL toàn văn, số hoá TL,... triển khai Dự án “Hiện đại hóa TVQĐ” do TVQĐ chủ trì thực hiện (2011-2016). Dự án đầu tư nhiều trang thiết bị CNTT phục vụ hoạt động nghiệp vụ cho TVQĐ: phần mềm quản trị TV tích hợp (của Công ty CMC), nâng cấp các trang web, hệ thống máy chủ, máy in mã vạch, máy scan rô bốt tự động Treventus, PĐ điện tử, hệ thống giám sát an ninh, xây dựng đường truyền cáp quang nối với Mạng TSLQS.

Năm 2019-2020, TVQĐ triển khai “Dự án số hóa kho tài liệu quân sự và xây dựng hệ thống lưu trữ dữ liệu số tại TVQĐ” (xây dựng phòng máy chủ đạt chuẩn, số hóa gần 10.000 tài liệu số). Đầu năm 2020, TVQĐ tham gia tích hợp dữ liệu vào HTTVS/BQP do Trung tâm TTKHQS/BQP chủ trì thực hiện, góp phần làm giàu nguồn TNTT số cho HTTVS/BQP, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chia sẻ, khai thác, tra cứu nguồn TNTT cho các cơ quan, đơn vị của BQP.

Đến nay, BQP đã xây dựng được HTTVS/BQP trên Mạng TSLQS với hơn 40 TV thuộc cơ quan TTKHQS (TV ở các học viện, nhà trường, cơ quan nghiên cứu) tham gia, tích hợp dữ liệu lên Hệ thống (hơn 2 triệu biểu ghi TL được tích hợp, khai thác, sử dụng chung trên Hệ thống). 100%  TV ở học viện, nhà trường đã nối Mạng TSLQS, xây dựng trang web trên Mạng TSLQS, mạng Internet, tích hợp dữ liệu lên HTTVS/BQP, sử dụng phần mềm quản trị TV tích hợp của Công ty CMC, xây dựng TVS, xây dựng CSDL toàn văn, số hóa TL, được trang bị các thiết bị CNTT và kiểm soát an ninh hiện đại như máy scan bán tự động/thủ công, cổng từ an ninh, chỉ từ, tem từ, máy khử từ, ứng dụng mã vạch vào quản lý, lưu thông, mượn trả TL; trang bị hệ thống camera giám sát,...

Các TV trực thuộc nhà văn hóa cơ bản chưa kết nối Mạng TSLQS, sử dụng phần mềm INFOLIB do TVQĐ phối hợp với Công ty Đức Minh phát triển và cung cấp. Các TV cấp trung, lữ đoàn và PĐ chủ yếu hoạt động theo phương thức truyền thống, nên việc khai thác và sử dụng chung TNTT của toàn hệ thống còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế.

Nhìn chung, các cơ quan TT, TV trong Quân đội đã từng bước đẩy mạnh ứng dụng CNTT, khoa học công nghệ hiện đại trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, tuy nhiên, việc triển khai còn chậm, việc đầu tư chưa thực sự đồng bộ, chưa phát huy hết hiệu quả của việc ứng dụng CNTT, sự chênh lệch giữa các cơ quan, đơn vị các cấp còn quá lớn, các hoạt động hướng tới dịch vụ TV hiện đại còn ở  mức khiêm tốn,... tạo nên nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình hoạt động và khai thác TT, TL của các TV cơ sở.

III. Giải pháp ứng dụng CNTT, CĐS trong Hệ thống TV, PĐ Quân đội

Thời gian tới, để thực hiện hiệu quả chủ trương, nhiệm vụ, nội dung về CĐS, cần tập trung:

Chuyển đổi và nâng cao nhận thức về CĐS.

Đẩy mạnh công tác quảng bá, tuyên truyền sâu rộng trong các cơ quan, đơn vị quân đội và toàn xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng, nội dung CĐS, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thống nhất về nhận thức và hành động, tạo nền tảng cho việc CĐS trong lĩnh vực TV đạt thành công vững chắc trong thời gian tới.

Phát huy vai trò của cơ quan quản lý nhà nước, tham mưu, chỉ đạo, triển khai hoạt động CĐS trong Quân đội.

Tham mưu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh CĐS. Rà soát, nghiên cứu, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ứng dụng CNTT, CĐS. Cùng với xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật, chính sách, cần đặc biệt chú trọng chỉ đạo xây dựng chiến lược, kế hoạch CĐS một cách đồng bộ, chủ động, tích cực, với quyết tâm cao, phù hợp với điều kiện thực tiễn. Đặc biệt, rà soát xây dựng, ban hành, phổ biến, hoàn thiện, bổ sung, điều chỉnh các cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, quy chế, quy định đáp ứng yêu cầu, tạo hành lang pháp lý, điều kiện thuận lợi cho các TV trong quá trình triển khai ứng dụng CNTT, CĐS hoạt động TV trong Quân đội.

Đẩy mạnh tạo lập, tổ chức TNTT số hóa, trong đó, chú trọng tạo lập, tổ chức số hóa TL nội sinh của BQP. Xây dựng các bộ sưu tập số dùng chung trong BQP.

 Bộ Quốc phòng là cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đường lối, nhiệm vụ quốc phòng, quân sự bảo vệ Tổ quốc; chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản lý, chỉ huy QĐND, dân quân tự vệ,.... Với chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng nói trên, hàng năm, BQP có một lượng TL nội sinh khổng lồ: Các tạp chí chuyên ngành quân sự, quốc phòng; kỷ yếu hội thảo khoa học chuyên ngành; TL đào tạo, huấn luyện, luận án, luận văn của các học viện, nhà trường,..; các xuất bản phẩm được xuất bản trong Quân đội,... là nguồn TL quý giá không chỉ của BQP mà còn của Nhà nước, quốc gia về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, vì vậy, việc số hóa, tổ chức, tích hợp, quản lý, khai thác, phổ biến, phân phối, lưu trữ,.... phục vụ công tác nghiên cứu, tham mưu, ra quyết định, hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chiến lược quân sự, quốc phòng; phục vụ đào tạo, huấn luyện; góp phần định hướng TT, phát triển văn hóa đọc, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần,... là vô cùng cần thiết và mang lại nhiều giá trị cả trước mắt và lâu dài.

Nghiên cứu xây dựng, phát triển các bộ sưu tập số chuyên ngành như: Giáo trình, bài giảng, kỷ yếu hội thảo khoa học, các tác phẩm văn học viết về đề tài chiến tranh, cách mạng,…; Xây dựng các cơ sở dữ liệu dữ kiện: các cơ quan, đơn vị trong quân đội; các trận đánh, chiến dịch; các tướng lĩnh; các anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân;…

Kết nối, liên thông các TV, PĐ trong toàn hệ thống

Trong thời gian tới, để thực hiện được các nội dung bảo đảm sách điện tử cho cán bộ, chiến sĩ được quy định trong Thông tư số 138 của BQP (2020) quy định chế độ, định mức, tiêu chuẩn đời sống văn hóa, tinh thần trong QĐND Việt Nam, các nội dung trong Chương trình CĐS Ngành TV của Thủ tướng Chính phủ và các vấn đề về TV hiện đại được quy định trong Luật TV đòi hỏi chúng ta phải thực hiện kết nối, liên thông các TV, PĐ trong Bộ Quốc phòng.

Trước hết, về cơ chế liên thông, đối với TV lực lượng vũ trang nhân dân, tại Điều 13, Khoản 2, Điểm c, Luật TV quy định: “Thực hiện liên thông giữa các TV trong cùng hệ thống, chia sẻ TNTT với TV trong và ngoài nước”.

Tại Chương III, Điều 24, Khoản 4 của Luật TV xác định liên thông TV là một trong những nguyên tắc của hoạt động TV và đã được quy định chi tiết trong Điều 19. Trong đó, quy định: “TV được Nhà nước ưu tiên đầu tư làm nòng cốt trong xây dựng, chia sẻ và khai thác TNTT dùng chung giữa các TV;… TNTT được xây dựng từ ngân sách nhà nước phải được liên thông, chia sẻ giữa các TV….”.

Đây là cơ sở, hành lang pháp lý quan trọng cho việc kết nối, liên thông các TV Việt Nam nói chung và các TV trong HTTVQĐ nói riêng. Tuy nhiên, để Luật thực sự đi vào thực tiễn đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các cơ quan chức năng, người làm công tác TV phải nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc kết nối, liên thông TV, để từ đó, có sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, tham mưu, đề xuất triển khai thực hiện các nội dung liên quan đến liên thông TV bảo đảm đúng định hướng, kịp thời, hiệu quả, tiết kiệm.

Về mặt bảo đảm hạ tầng, kỹ thuật: Cần đẩy mạnh rà soát, mở rộng, phát triển, kết nối Mạng TSLQS đến các TV cơ sở trên toàn quân. Trọng tâm, tập trung rà soát, đầu tư, phát triển Mạng TSLQS đến các TV trực thuộc nhà văn hóa của các cơ quan, đơn vị; Nâng cấp mạng lưới các TV trực thuộc các cơ quan TT, KHQS thành một mạng lưới làm nòng cốt, hạt nhân cho toàn bộ hệ thống; Xây dựng TVQĐ trở thành một trong những TVS hiện đại của Việt Nam, có năng lực quản trị dữ liệu tập trung, phân tích, xử lý dữ liệu lớn cho toàn hệ thống; Xây dựng, phát triển mạng lưới TV, PĐ của Quân đội thành mạng lưới TV, PĐ hiện đại; Xây dựng hệ thống TVS dùng chung trong BQP thống nhất; Xây dựng phần mềm quản trị TV tập trung có khả năng liên thông, liên kết, tích hợp, chia sẻ, khai thác, sử dụng chung TNTT của các TV trong hệ thống; Trang bị hệ thống máy chủ, thiết bị lưu trữ, thiết bị mạng, thiết bị đọc,... cho các TV, PĐ cơ sở bảo đảm công tác quản lý, lưu trữ, truy xuất dữ liệu lớn, liên thông, liên kết, tích hợp, chia sẻ, khai thác TNTT số trong toàn hệ thống.

Về nội dung liên thông: Các TV trong hệ thống có thể liên thông để hợp tác trong bổ sung, chia sẻ và sử dụng chung TNTT giữa các TV, chia sẻ kết quả xử lý TNTT và sản phẩm TT, TV, xây dựng mục lục liên hợp, liên kết tổ chức các dịch vụ TV phục vụ người sử dụng TV.

Về phương thức liên thông: Các TV trong Quân đội có thể liên thông: Theo nhóm thư viện có chức năng, nhiệm vụ, đối tượng phục vụ tương đồng: Liên thông các thư viện thuộc các cơ quan thông tin, khoa học quân sự; liên thông các thư viện thuộc nhà văn hóa. Theo khu vực địa lý: Liên thông các thư viện trên địa bàn quân khu. Theo lĩnh vực, nội dung hoạt động: Thư viện của Quân chủng, Binh chủng,…

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định đến quá trình phát triển của một cơ quan, tổ chức hay một hệ thống. Vì vậy, cần tăng cường, quan tâm, ưu tiên đầu tư đào tạo, đào tạo lại, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên TV, đặc biệt là cán bộ trẻ về CNTT, ngoại ngữ, nghiệp vụ TV hiện đại nhằm làm chủ các phương tiện, thiết bị công nghệ mới, hiện đại. Đặc biệt, cần đào tạo bổ sung nguồn nhân lực TV có khả năng xây dựng, quản trị TVS, tri thức số và lực lượng chuyên sâu về quản trị mạng, an ninh mạng,… theo tiêu chí tinh, gọn, mạnh. Sẵn sàng bổ sung nguồn nhân lực cho Quân đội đáp ứng yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trong chiến tranh TT, tác chiến trên không gian mạng,... Bên cạnh đó, cần bố trí, cải thiện môi trường làm việc và chú trọng chế độ đãi ngộ, khen thưởng để thu hút, động viên, khích lệ đội ngũ cán bộ, nhân viên TV làm việc và cống hiến lâu dài trong Quân đội.

Như vậy, việc ứng dụng CNTT, CĐS trong các TV của Quân đội bước đầu đạt kết quả, mang lại những thay đổi lớn trong hoạt động TV toàn quân. Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển và phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống TV, PĐ trong Quân đội, phục vụ đắc lực công tác nghiên cứu, tham mưu, ra quyết định, hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chiến lược quân sự, quốc phòng cho lãnh đạo, chỉ huy; phục vụ đào tạo, huấn luyện; góp phần định hướng TT, phát triển văn hóa đọc, nâng cao nhận thức, chính trị tư tưởng, văn hóa, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, cần có sự quan tâm, đầu tư đồng bộ, từ cơ chế, chính sách cho đến tập trung nguồn lực lớn của Nhà nước và Quân đội, sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng, sự nỗ lực của cán bộ, nhân viên TV để hệ thống sớm được tự động hóa, thông minh hóa, liên thông, tích hợp, khai thác, sử dụng chung TNTT, trở thành một mạng lưới TV hiện đại, tạo bước ngoặt nổi bật, trở thành hình mẫu, mô hình hiệu quả trong hoạt động CĐS của toàn quân, góp phần xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,... tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 / QĐ số 206/QĐ-TTg ngày 11/02/2021 của TTCP.
  2. Công văn số 1820/BVHTTDL-TV ngày 03/6/2021, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc tiếp tục triển khai Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng, giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
  3. Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030/ QĐ số 329/QĐ-TTg ngày 15/3/2017 của TTCP.
  4. Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số cho hệ thống thư viện trong Quân đội nhân dân Việt Nam/Mạc Thùy Dương, Trần Nữ Quế Phương.- Số 10.- Năm 2021.- Tạp chí Khoa học Quân sự/Trung tâm Thông tin Khoa học Quân sự/BQP.
  5. Kế hoạch số 1349/KH-CT ngày 15-8-2022 của Tổng cục Chính trị về Thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trong Quân đội nhân dân Việt Nam
  6. Luật Thư viện 2019. Luật số: 46/2019/QH14, ngày 21 tháng 11 năm 2019.
  7. Quy hoạch hệ thống Thiết chế văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam, giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 của BQP ban hành kèm theo Quyết định số 3672/QĐ-BQP ngày 24 tháng 11 năm 2020.
  8. Quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Thư viện Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020. Số 10/2007/QĐ-BVHTT.
  9. Thông tư số 138/2020/TT-BQP của Bộ Quốc phòng, quy định chế độ, định mức, tiêu chuẩn đời sống văn hóa, tinh thần trong QĐNDVN.

 

Bài, Ảnh : Trung tá, Ths. Trần Nữ Quế Phương Trưởng phòng Thông tin – Thư mục – Máy tính/TVQĐ

Lên đầu trang